Skip to Content

Blog

Xây nhà …qua ảnh, nên chăng?

Ông Nguyễn Văn Minh tại Bà Rịa – Vũng Tàu là một điển hình tiêu biểu của việc xây nhà không bản vẽ. Lẽ ra phải nhờ kiến trúc sư tư vấn, ông bà lại tự mình thiết kế theo kiểu đi “săn” ảnh đẹp và bắt chước theo đó.

Gia đình ông Minh có miếng đất nằm trên quốc lộ, bề ngang 5 m và dài 30 m. Con của ông ở nước ngoài yêu cầu ông xây căn nhà một trệt, một lầu, riêng trên lầu, sẽ xây 3 phòng ngủ, một nhà vệ sinh chung để mỗi khi về quê thì các con, cháu ông có nơi nghỉ ngơi cho thoải mái. Lẽ ra phải nhờ kiến trúc sư thiết kế hoặc tư vấn, hai ông bà lại chở nhau đi khắp nơi gần tuần lễ với chiếc máy ảnh, chụp và rửa ra đến vài chục kiểu nhà. Sau khi chọn được trong số ấy mẫu nhà ưng ý nhất, ông bà mời nhà thầu đến. Ông thầu xem qua tấm ảnh mẫu, cam kết sẽ làm được, và đưa ra con số dự trù chi phí vào khoảng 250 triệu đồng. Thế là hai bên giao kèo miệng với nhau.

Nhưng xây dựng một ngôi nhà, không đơn giản chỉ nhìn vào tấm ảnh chụp mặt tiền. Điều quan trọng chính là thiết kế xếp đặt bên trong sao cho phù hợp với sinh hoạt của chủ nhân. Mặt khác, phải biết tận dụng gió trời và ánh sáng tự nhiên để tạo sinh khí cho ngôi nhà. Ông bà Minh cũng rủi là gặp thầu “non tay”, không biết cấu trúc các phòng của nhà mẫu ra sao, nên tự mình xếp đặt. Sau 7 tháng, nhà làm xong, giá thành lên tới gần 400 triệu đồng.

nha-tang-lung-anh-nho-1

Những tưởng có nhà đẹp sẽ làm ông bà sung sướng và hạnh phúc hơn, nhưng căn nhà ấy lại là nỗi xấu hổ và luôn làm cho ông bà tức giận khi ai đó đề cập đến. Bởi vì căn nhà làm xong không đúng như cam kết ban đầu, kể cả mặt tiền. Đã thế các phòng ngủ bên trong lại tối tăm và nóng nực khiến người vào ở không chịu nổi. Nhà 5 m bề ngang, nhà thầu chừa ra đến 2,5 m để trổ cầu thang nên không còn đất để xây phòng. Kết quả là ông Minh phải bỏ ra một số tiền lớn để gắn thêm điều hòa cho mỗi phòng ngủ, điều không có trong dự toán ban đầu, cũng không cần thiết với không khí thoáng đãng, trong lành ở nông thôn. Những bậc thang lại quá cao (25 cm), không phù hợp với thể hình người bình thường, nên mỗi lần lên xuống là cả một “cực hình” cho hai ông bà.

Một sai lầm trầm trọng khác trong ngôi nhà, đó là hệ thống thoát nước luôn ứ nghẹt. Do đường ống ngầm dưới nền quá nhỏ (phi 60 – đường kính 60 mm) nên chỉ sau một năm sử dụng, các chất bẩn bám khiến lòng ống bị thu hẹp lại, dòng chảy bị cản, nước dâng trên mặt nền phòng tắm mỗi khi xả nước nhiều. Trần nhà nước thấm loang lổ rêu mốc trông quá bẩn mắt. Các con về thăm cha mẹ dự định ở lại một tháng, nhưng phải ra đi sớm vì không chịu nổi nóng bức, ngột ngạt khiến mấy đứa cháu rôm sảy nổi đầy người.

Quanh vùng, không chỉ một mình ông Minh bị “dính” trường hợp như thế này. Có nhiều nhà thầu không hề học qua bất kỳ trường lớp chuyên môn nào, nhất là ở nông thôn. Thậm chí văn hóa phổ thông có khi còn chưa qua hết cấp 2. Họ thường khởi đầu công việc là anh thợ nề, nhờ “sống lâu lên lão làng”, có đủ “uy” gom thợ, biết được đầu việc là trở thành thầu. Sau khi quy tụ một số cánh thợ, họ bèn đứng ra nhận thầu. Đã có trường hợp ông thầu không đọc được bản vẽ, không hiểu các ký hiệu ghi trong đó. Đây là một sự thật phũ phàng, vô phúc cho gia chủ khi giao ngôi nhà cho họ thực hiện.

Lại có nhà thầu, vì nhận một lúc vài căn nhà mà thợ thuyền không đủ số nên phải gian lận trong các công đoạn để chạy công. Chính vì thế, nhiều căn nhà chỉ sau vài năm là nứt nẻ, thấm dột, bong tróc… xuống cấp quá nhanh.

Ở các vùng đang đô thị hóa, khi quyết định mua một chiếc xe máy giá trị chỉ mươi triệu, nhiều người hết sức đắn đo, đi dò hỏi nhiều nơi, thậm chí còn nhờ cả thợ sửa xe đi mua cùng. Sự cẩn thận như thế được xem là “khôn ngoan”. Nhưng khi xây ngôi nhà trị giá vài trăm triệu, là sản nghiệp một đời thì có gia chủ lại “ngu ngơ” đem giao phó hoàn toàn cho nhà thầu thi công.

Việc nhờ kiến trúc sư thiết kế, thực hiện bản vẽ cho ngôi nhà dĩ nhiên sẽ phải trả một khoản phí nhất định, nhưng gia chủ sẽ được bảo đảm về kỹ thuật, về giá trị không gian sử dụng và tính thẩm mỹ. Khi bàn bạc với kiến trúc sư, gia chủ cho biết ý định về ngôi nhà của mình, từ ý tưởng ấy, kiến trúc sư sẽ thể hiện ra trên giấy. Những thông số được tính toán, các bố cục không gian, chất liệu, màu sắc được chỉ định cho ngôi nhà… sẽ tránh được sự tùy tiện của nhà thầu, tránh được những sai lầm đáng tiếc về sau.

READ MORE

Môi giới bất động sản – Anh là ai?

Người môi giới bất động sản tư vấn cho người mua các khoản vay có lãi suất thấp và lợi nhất từ các tổ chức tài chính, các ngân hàng. Đây là một đặc điểm tạo nên sự khác biệt về dịch vụ môi giới bất động sản. Trong một số trường hợp, người môi giới và đại lý chỉ hoàn tất các trách nhiệm ban đầu cho việc thỏa thuận, còn việc hoàn tất thỏa thuận đó về tài chính hay pháp lý lại do luật sư hay tổ chức tín dụng, ngân hàng thực hiện.

Dân số tăng, kéo theo nhu cầu về bất động sản tăng tạo điều kiện cho nghề môi giới phát triển.

Mới xuất hiện ở Việt Nam nhưng đã phát triển lâu và mạnh mẽ ở các nước phát triển, nghề môi giới bất động sản (bất động sản) là nghề có vị trí rất quan trọng trong cuộc sống xã hội khi nhu cầu sử dụng đất ngày càng tăng cao.

Chân dung nhà môi giới

Những nhà môi giới và các văn phòng mua bán bất động sản có một kiến thức khá sâu rộng về thị trường bất động sản trong khu vực. Họ nắm rõ nhu cầu của khách hàng, và thị trường cũng như những biến động về giá cả. Họ thông thuộc các ngóc ngách của thị trường, các quy định về thuế, cũng như hỗ trợ tài chính từ các ngân hàng, tổ chức tín dụng.

Môi giới bất động sản là người kinh doanh hoàn toàn độc lập, họ bán, cho thuê hay quản lý các bất động sản thuộc sở hữu của khách hàng với một khoản phí theo thỏa thuận. Khi bán bất động sản, người môi giới thực hiện tất cả các nghiệp vụ từ khớp nối và tìm kiếm nhu cầu mua – bán, thu xếp các cuộc thương thảo cho đến khi thành công và chủ mới của bất động sản hoàn tất quyền sở hữu chuyển đổi.

Người môi giới thường có tính cách dễ chịu, trung thực, và một bề ngoài tin cậy. Chín chắn, có đánh giá, nhận định đúng, đáng tin cậy, và nhiệt tình trong công việc là yêu cầu hàng đầu. Vì bất động sản là sản phẩm có giá trị rất cao nên người đại diện cần có biểu hiện thuyết phục nhất đối với khách hàng. Các đại lý bất động sản thì cần có đầu óc tổ chức tốt, tỷ mỷ, và trí nhớ tốt (họ cần nhớ không chỉ tên, mặt của khách hàng mà cả những đặc điểm thị hiếu của khách hàng).

Tại các quốc gia phát triển, ví dụ như Mỹ, môi giới bất động sản phải có giấy phép hành nghề. Thi lấy giấy phép – với người môi giới thì khó hơn với đại lý – bao gồm bảng câu hỏi về các giao dịch bất động sản cơ bản và luật liên quan đến mua bán bất động sản

Muốn trở thành đại lý bất động sản cũng cần có giấy phép hành nghề, và để có được chứng chỉ này cần tham gia một khóa đào tạo từ 30 đến 90 giờ. Với những ai muốn trở thành người môi giới bất động sản thì cần tham dự một khóa đào tạo từ 60 đến 90 giờ; và phải có kinh nghiệm mua bán bất động sản, thường từ 1 đến 3 năm. Giấy phép hành nghề có giá trị thường từ 1 đến 2 năm

Làm lợi nhất cho khách hàng

Phần lớn các đại lý và nhà môi giới bất động sản bán các bất động sản để ở. Một số nhỏ – thường là các công ty kinh doanh và quản lý bất động sản lớn – chuyên mua bán bất động sản mang tính chất thương mại, công nghiệp, nông nghiệp hay mục đích kinh doanh khác. Mỗi lĩnh vực đều yêu cầu kiến thức về đặc thù của loại hình bất động sản và các đối tượng khách hàng.

Cho dù với bất kỳ loại hình bất động sản nào, đại lý hay người môi giới cần phải biết rõ các nhu cầu của khách hàng trước một thương vụ mua bán. Trước khi dẫn người mua đến xem một địa chỉ bất động sản, đại lý thường phải tiếp xúc với khách hàng một số lần để nắm rõ nhu cầu cũng như thị hiếu của khách hàng. Đây có thể coi là giai đoạn tiền khả thi cho một giao dịch và đại lý cũng cần xác định rõ khả năng tài chính của người mua. Đại lý hay người môi giới sẽ niêm yết một danh sách các ngôi nhà bán, vị trí và mô tả chi tiết, và một điểm rất quan trọng – là các nguồn hỗ trợ tín dụng cần thiết cho khách hàng.

Người môi giới bất động sản tư vấn cho người mua các khoản vay có lãi suất thấp và lợi nhất từ các tổ chức tài chính, các ngân hàng. Đây là một đặc điểm tạo nên sự khác biệt về dịch vụ môi giới bất động sản. Trong một số trường hợp, người môi giới và đại lý chỉ hoàn tất các trách nhiệm ban đầu cho việc thỏa thuận, còn việc hoàn tất thỏa thuận đó về tài chính hay pháp lý lại do luật sư hay tổ chức tín dụng, ngân hàng thực hiện.

Cơ hội và thu nhập

Nhu cầu tuyển dụng đối với các đại lý và môi giới bất động sản sẽ tăng mạnh đến năm 2014. Lý do là khi dân số tăng cao thì nhu cầu về nhà ở ngày càng tăng, nhất là khi nhận thức chung của xã hội là đầu tư vào bất động sản là một đầu tư “khôn ngoan”. Tuy nhiên, do ứng dụng của công nghệ thông tin, ngày nay khách hàng có thể truy cập vào các trang web để tìm kiếm các thông tin liên quan đến bất động sản mà mình quan tâm.

Vì vậy, trong tương lai gần nếu bạn làm nghề bán thời gian hay coi đó là nghề tay trái đều rất khó cạnh tranh. Các quy định và yếu tố pháp lý luôn thay đổi và điều chỉnh, cũng là nguyên nhân khiến cho một số người không chuyên khó mà có thể cạnh tranh được với các công ty làm ăn bài bản và chuyên nghiệp.

Vào nghề môi giới bất động sản khá dễ vì đặc thù công việc và điều kiện làm việc linh hoạt, thù lao lại cao nếu bạn có nhiều khách hàng và giao dịch thành công. Nếu được đào tạo tốt, và có tham vọng – đặc biệt nếu bạn có mối quan hệ rộng trong xã hội và giới kinh doanh – bạn có thể nắm bắt cơ hội thành công trong nghề. Tuy nhiên, người mới vào nghề thì thu nhập thường không ổn định, có thể sau vài tháng không bán được bất động sản nào buộc phải bỏ nghề! Vì vậy, người mới vào nghề, nên có một khoản tiền ít nhất để nuôi mình trong vòng 6 tháng cho đến khi họ có thể có được thu nhập từ tiền hoa hồng!

Hoa hồng là nguồn thu nhập chính của các đại lý và môi giới bất động sản. Tỷ lệ hoa hồng tùy thuộc vào thỏa thuận của đại lý và người môi giới, vào loại bất động sản và giá trị của bất động sản. Tiền hoa hồng được phân chia giữa nhiều đại lý và môi giới bất động sản. Khi bất động sản được bán, người môi giới hay đại lý có bản niêm yết sẽ chia khoản tiền hoa hồng được hưởng với người môi giới hay đại ký bán được bất động sản, và với công ty mà họ đang làm việc

Mặc dù là tiền chia hoa hồng cho các đại lý giữa các công ty là khác nhau, nhưng thường giá trị bằng một nửa số tiền hoa hồng mà công ty nhận được. Đại lý nào vừa có bản niêm yết vừa bán được bất động sản sẽ có số hoa hồng cao nhất.

Nghề môi giới và đại lý bất động sản là nghề khá “nhạy cảm” với biến động của thị truờng, đặc biệt các biến động liên quan đến tỷ giá. Khi hoạt động kinh tế suy giảm và tỷ giá tăng, số giao dịch về bất động sản đương nhiên sẽ giảm xuống.

Thu nhập của 1 người làm đại lý bất động sản ở Mỹ, bao gồm cả tiền hoa hồng dao động từ 35,670 USD đến 92.770 USD/ năm. Con số này bao gồm những công việc có liên quan đến việc kinh doanh, môi giới và đại lý bất động sản các loại (nhà ở, văn phòng cho thuê, thuê mua, các mục đích công nghiệp…).

READ MORE

Sống trong chung cư ở Matxcơva

Ở Mátxcơva hiện nay, hầu hết các khu chung cư vẫn là “sản phẩm” từ thời Liên Xô cũ. Các tòa nhà đều thấp tầng, không có thang máy và việc cải tạo, sửa chữa vẫn còn rất tự phát, không theo sự đồng bộ.

Tuy nhiên, các căn hộ vẫn có những không gian rất khép kín. Căn hộ nằm cách điện Kremlin khoảng 2 km này là một trong số đó, với một phòng ngủ, phòng khách, phòng làm việc, bếp và phòng tắm. Hiện, nơi này đang được cho thuê với giá 1.200 USD/tháng.

Nga6

Khu căn hộ chỉ có 6 tầng, không thang máy và thiết kế khá đơn giản, theo model cũ từ thời Liên Xô. Phía sau nhà là một khu sân băng dành cho những cư dân ở đây, một khu vui chơi lý tưởng vào những ngày mùa đông.

Nga5

Căn hộ có diện tích khá khiêm tốn nên chỉ có một phòng ngủ.

Nga3

Một chiếc gương lớn được đặt ở sảnh ngay lối đi nối phòng khách với bếp.

Nga4

Bếp thông thoáng với ánh sáng tràn ngập từ ban công. Ở đây, trong góc tủ lạnh có những hình ảnh của người thân, bạn bè và những hình ảnh của nước Nga. Khu ban công là nơi lý tưởng cho các bữa tiệc thịt nướng ngoài trời vào mùa hè.

Nga2

Khu vực phòng khách được tạo điểm nhấn bằng hai mảng tường khác nhau, nhờ giấy dán tường. Cây cảnh cũng hiện diện trong không gian này.

Nga1

Phòng làm việc của chủ nhân trong căn hộ được bài trí với chủ đề thiên nhiên khá yên tĩnh.

READ MORE

Khung thay thế tường chịu lực

Với sự phát triển kỹ thuật xây dựng bằng thép và bê tông cốt thép, tường không còn là phần chịu lực chính của công trình. Toàn bộ tải trọng của mái và sàn nhà được truyền vào hệ thống đà, cột và chuyển xuống móng. Khi đó, tường chỉ còn công dụng ngăn chia và bao bọc.

Khi đó, tường không còn bị giới hạn bởi các yếu tố bề dày, vật liệu, cách bố trí và các khoảng trống bị hạn chế như với tường chịu lực. Nhiều người gọi là khung chịu lực và tường xây chèn. Cửa đi, cửa sổ và các khoảng trống khác trên tường được mở rộng tối đa theo cả hai phương đứng và ngang. Mặt bằng bố trí tường hoàn toàn tự do và không bị ràng buộc bởi vật liệu.

Việc ra đời của cấu trúc nhà khung chịu lực đã giải phóng hệ thống tường theo phương thức cổ điển, tạo nên một cuộc cách mạng trong kiến trúc. Trường phái kiến trúc hiện đại (modernism) ra đời với cấu trúc điển hình này, đã làm thay đổi toàn bộ diện mạo kiến trúc công trình trong suốt thế kỷ 19 và kéo dài đến nay. Tuy nhiên ở Việt Nam, trong lĩnh vực kiến trúc – xây dựng, việc áp dụng hệ khung chịu lực một cách phổ biến mới chỉ gần đây, rất chậm so với thế giới.

melbourne 111

Trường trung học Victorian ở Melbourne

Cấu trúc khung chịu lực thay thế tường chịu lực đã tạo nên các không gian nội thất vô cùng linh hoạt. Tường ngăn chia được bố trí rất tự do và hoàn toàn có thể thay đổi vị trí theo yêu cầu. Tại các nước tiên tiến, tường ngăn chia thường không được xây bằng gạch như ở Việt Nam, vì các nhược điểm: tốc độ xây dựng chậm, tải trọng bản thân lớn, khó thay đổi theo yêu cầu và rất phiền phức khi thực hiện (gạch, cát, xi măng…) nhất là trong các tòa nhà công cộng đang được sử dụng. Tường ngăn chia có thể cố định hoặc di động theo các thanh ray, vật liệu rất đa dạng tùy theo ý đồ của người thiết kế.

Tường bao che tuy hiện nay không phải là tường chịu lực, nhưng vẫn phải được cấu tạo bằng loại vật liệu “chịu lực” lớn do yếu tố an toàn. Tường bao che còn phải có được tính cách nhiệt, cách âm tốt.

Tường bao che bằng gạch thường phải dày, nhiều trường hợp phải có lớp cách nhiệt ở giữa. Vật liệu hoàn thiện cho tường gạch phải có tính chống thấm nước, chịu được tác động của nắng, gió và phải có độ co giãn cao để tránh rạn nứt.

London city hall

London City Hall

Kính dùng cho tường bao che phải là kính cường lực có khả năng chịu va đập cao gấp nhiều lần kính bình thường, có hệ số phản xạ nhiệt lớn. Nhiều lúc người ta phải sử dụng kính hai lớp, có khoảng trống ở giữa làm tăng tính cách âm và cách nhiệt cho công trình. Để tăng hiệu quả trong suốt, người ta có thể thực hiện những mảng tường rất lớn bằng kính và có cảm giác không có khung chịu lực. Hiện nay ở Việt Nam, nhiều người thiết kế áp dụng kiểu mặt đứng “curtain wall” cho công trình và quả thật là “đại nạn” cho người sử dụng nếu không dùng kính và khung chịu lực đúng tiêu chuẩn.

Tường ngăn chia ở Việt Nam thường được xây bằng gạch, hoàn thiện bằng sơn nước hoặc các loại vật liệu trang trí. Ở các nước tiên tiến, tường ngăn chia thường bằng thạch cao, gỗ, kính hoặc cả đá tự nhiên… và được lắp ráp trên khung chịu lực bằng kim loại nhẹ. Trong một số trường hợp, tường ngăn chia còn là các tấm di động trên đường ray để tăng khả năng linh hoạt của không gian nội thất.

Do có một vị trí áp đảo trong mỗi công trình nên tường thường được trang điểm bằng nhiều loại vật liệu. Thông thường, người ta hay sử dụng sơn nước. Tuy nhiên, cũng có những vật liệu trang điểm thông dụng khác như gạch ceramic, đá tự nhiên, gỗ, nhôm, thép, kính…

READ MORE

Biện pháp an toàn đối với ngầm cao tầng

Tầng ngầm của những cao ốc là một trong những phần việc rất quan trọng, không chỉ có vai trò với công trình mà còn với những công trình lân cận. Chính vì vậy, khi tiến hành khảo sát địa chất cũng như xác lập quy trình kỹ thuật xây dựng tầng ngầm đòi hỏi phải có những yêu cầu kỹ thuật nghiêm ngặt của lĩnh vực xây dựng ngầm.

Trao đổi của SGTT với PGS-TS Nguyễn Bá Kế – chuyên gia xây dựng hầm sâu về những nguyên tắc khi thực hiện các công trình hầm ngầm:

Vai trò của tường vây

Theo TS Kế, tường vây quanh hệ thống ngầm phải có chiều dày cũng như độ sâu tương ứng với độ sâu của tầng ngầm và tuỳ thuộc vào cấu trúc của đất tại khu vực xây dựng. Về mặt lý thuyết, bề dày tường vây của tầng ngầm thường thay đổi từ 40 – 100 cm hoặc hơn. Hầm ngầm càng sâu, độ dày của tường vây càng tăng lên. Ngoài ra, nếu xung quanh là những công trình quan trọng như cao ốc, bảo tàng, đường cáp điện hay khí đốt, những công trình có yêu cầu đặc biệt cần bảo vệ…, độ dày của tường vây phải dày hơn. Những chỉ số tính toán này sẽ được nhà thiết kế công trình ngầm xác định dựa trên những yêu cầu vừa nêu.

Còn về độ sâu của tường vây (phần ngập trong đất), thường từ 0,7 đến 2 lần so với độ cao tổng thể của tầng hầm, tuỳ thuộc vào loại đất và mực nước ngầm. Ví dụ, hầm sâu 12 m (3 tầng, tính từ trần của tầng hầm đầu tiên đến sàn của tầng hầm cuối cùng) thì độ sâu của bức tường vây phải là 8 – 24 m! Tuy nhiên, độ sâu này có thể lớn hơn chỉ số trên nếu địa chất ở khu vực xây dựng thuộc vào dạng yếu. Trong khi xây dựng tường vây, nếu quá sâu phải có những “văng chống hoặc neo” có chức năng giữ tường vây được ổn định trong suốt quá trình thi công.

Nhưng đó chỉ là mặt lý thuyết, còn thực tế xây dựng như thế nào mới là điều quan trọng. Trước hết, khi tiến hành thi công tường vây, nhà xây dựng phải đặt mốc “quan trắc liên tục” để xem thử những bức tường này có bị “lún” cũng như “chuyển vị” hay không khi đào đất ở giữa. Đây là một trong những yếu tố bắt buộc khi thi công các công trình ngầm. Không chỉ quan trắc tường vây mà cần phải quan trắc cả khu vực xung quanh công trình trong phạm vi bán kính “gấp đôi” chiều sâu của bức tường được tính từ mặt đất cho đến mặt sàn của tầng hầm cuối cùng. Ví dụ, bức tường sâu 12 m thì bán kính quan trắc là 24 m.

Quan trắc địa kỹ thuật để làm gì? Những thông số này giúp đơn vị thi công công trình và các cơ quan chức năng biết trước được những tác động xấu sẽ xảy ra để từ đó cân nhắc gia cố thêm tường hay không hoặc thay đổi phương pháp thi công. Việc quan trắc này không chỉ nhằm an toàn cho toàn cao ốc mà còn cả các công trình lân cận, con người và các sinh hoạt bình thường của cư dân.

Địa chất công trình – rất phức tạp

Với những công trình phức tạp như vậy, theo TS Kế, không thể không có việc khoan địa chất để thiết kế công trình nhưng cần làm rõ hồ sơ khảo sát địa chất đó có đúng với thực tế địa chất khu vực đó hay không? Ngoài ra, kết quả đo đạc của nhà thầu trong quá trình thi công ra sao có dấu hiệu nguy hiểm không… cũng phải được tường minh. Những câu hỏi trên cần có được hồ sơ cụ thể, các chuyên gia sẽ không quá khó để xác định trách nhiệm của từng bên.

Một chuyên gia về lĩnh vực cơ học đất nền móng công trình cho biết thêm, có thể khi khoan địa chất công trình cao ốc, họ chỉ khoan ngay tại khu vực xây dựng nên không thể phát hiện ra những “túi đất yếu” hay những “vùng địa chất phức tạp” ở vùng đất lân cận.

Sau này, trong quá trình xây dựng, do biến đổi của thời tiết, địa chất, của việc thi công xây dựng tường vây… mà những “túi đất yếu” đó “bục” ra. Khi những túi nước này bục ra, tạo áp lực nước lớn, gặp những đầu mối bêtông kém chất lượng, đã chảy vào hầm ngầm, kéo theo lượng đất lớn ở nền khu vực toà nhà, tạo nền của toà nhà lân cận bị “hẫng”, tạo ra một “lực trượt” cho nền đất bên cạnh tường vây. Có thể địa chất phức tạp chưa được tìm hiểu hết nhưng nhiệm vụ của người thiết kế và thi công tầng hầm phải dùng mọi biện pháp để sớm phát hiện.

Theo chuyên gia này, việc khảo sát để xây dựng những công trình hầm ngầm cần được giới chuyên môn thảo luận kỹ trước khi cơ quan có trách nhiệm đưa ra những quyết định cuối cùng.

READ MORE

Lưu ý trước khi làm “thượng đế” của kiến trúc sư

Từ xa xưa, các cụ đã khái quát ba việc lớn của đời người: “Xây nhà, lấy vợ, tậu trâu”…Ngày nay, tạo dựng một căn nhà tuy có đặc điểm khác nhưng nó vẫn là việc trọng đại. Quá trình tạo dựng một ngôi nhà khó có thể gọi là mỹ mãn nếu không có sự tham dự của người kiến trúc sư (KTS). Mối quan hệ giữa chủ nhà (người sẽ ở trong căn nhà không phải do mình sáng tạo nên) và KTS (người sáng tạo nên ngôi nhà không phải cho mình) đặc biệt quan trọng đối với việc hình thành của ngôi nhà.

Người có tiền có thể ra cửa hàng để mua một món đồ một cách đơn giản, không phải tốn quá nhiều công sức và trí tưởng tượng để hình dung cái mình muốn. Một chiếc xe hơi có thể tìm thấy chủ nhân của nó nếu nó đủ đẹp, đủ sức hấp dẫn trước mặt người mua với tiện nghi và hình ảnh của chính mình.

Nhưng ngôi nhà không đơn giản như thế. Cho dù phải thuyết phục đến khản cả cổ thì người KTS cũng không thể truyền cái sự rung động của mình trong thiết kế nếu như ông ta không gặp may khi phải đối diện một vị khách hàng không quen tưởng tượng. Và ông KTS cũng lại càng không gặp may nếu như vị khách đi đến văn phòng với “một phái đoàn” gồm vợ, con để cùng bàn luận chuyện xây nhà. Có khi họ tranh nhau nói, giành nhau trình bày cái mình thích ngay trước mặt nhà thiết kế. Và chuyện cãi nhau và giận hờn nhau ngay tại văn phòng KTS cũng là chuyện có thể xảy ra và chính người KTS lại trở thành nhà hòa giải với hậu quả “quá mất thời gian”.

Trong chuyện xây nhà, cái khó nhất của người chủ nhà là làm sao có thể “chốt” được cái ý muốn của mình, đồng thời ngay lập tức phải hiểu được rằng mình sẽ bỏ ra bao nhiêu tiền cho việc xây cất này.

Ai cũng hiểu vậy nhưng mấy ai biết “lần” ra từ chỗ nào trước?

Đối với người KTS, cái khó nhất ở giai đoạn này là làm sao có thể hiểu được khách hàng của mình thực sự cần cái gì là chính. Cũng như một người bệnh đến với bác sĩ, đối với họ, chỉ có căn bệnh của mình là quan trọng. Còn đối với người KTS thì cũng giống như bác sĩ, ngày nào cũng thấy bệnh, mọi bệnh đều có thuốc trị, đâu có gì mà phải lo. Đây chính là điều không tốt. Người đặt hàng thì quá lo lắng, còn người thiết kế thì thấy bình thường.

Trên thực tế mọi chuyện đều bình thường nhưng cũng đáng để lo lắng

Sự thành công sẽ nằm ở chỗ hai bên sẽ có cùng một cái hiểu về những điểm chính của ngôi nhà để cùng quan tâm cái đáng quan tâm. Ở các dự án lớn, người ta không cần phải bàn nhiều vì đã có những quy định, và tất cả mọi người tham gia đều biết cách làm. Nhưng ở một ngôi nhà, chủ nhân là một nhà “đầu tư không chuyên nghiệp” (tạm gọi là như thế) thì có bao nhiêu câu hỏi sẽ được đặt ra trước khi đi gặp người KTS thiết kế cho ta?

Có thật sự cần một Kiến trúc sư?

Đối với những người chưa từng xây nhà, có lẽ KTS sẽ là cứu cánh. Tuy nhiên thực tế chưa chắc, bởi vì “cứu” tới lúc nào đó bỗng nhiên sao thấy ông KTS nhiều “cánh” quá, thôi mình tự… cứu cho nhanh: giải quyết thẳng với ông thầu hoặc ông cai tại chỗ, nhanh hơn nhiều. Đó là điều sai và như thế thì chả khác nào KTS là cái bánh… thứ 5 của chiếc xe hơi.

Nhưng đối với người đã từng xây nhiều nhà rồi, thì KTS sẽ dễ trở thành “thợ vẽ” dùm cho ý đồ của chủ nhà. Đôi khi KTS bị… tước cả quyền chọn lựa vật liệu cho ngôi nhà. Điều này không quá khó hiểu vì đôi khi chủ nhà lại sợ KTS bày vẽ tốn kém, nhưng thật ra cũng sai nốt. Bởi vì KTS được đào tạo để bỏ bớt những sự dư thừa trong thẩm mỹ nhằm đi tìm sự hài hoà trong những vật liệu khác nhau.

Đồng tiền có ý nghĩa

Ngôi nhà nói lên sự khôn ngoan trong việc sử dụng đồng tiền của chủ nhân. Cả người KTS lẫn chủ nhà đều nên cùng hiểu cấp độ đầu tư phù hợp cho ngôi nhà. Mỗi phòng ngủ đều có một nhà vệ sinh riêng chưa chắc đã là ý tưởng khôn ngoan cho một căn hộ với chủ nhân có nhiều “công chúa và hoàng tử nhí”: làm sao chăm sóc vệ sinh? Trang trí ngôi nhà như một khách sạn 5 sao với quá nhiều đá marble đắt tiền từ trong ra ngoài sẽ làm ngôi nhà trở nên không thân thiện.

Cái mình cần và cái mình thích phải có sự phân biệt rõ ràng

Một phòng sauna trong nhà? Ôi, thật là thích, nhưng có thực mọi người cần? Một phòng sinh hoạt có bàn bida trong căn hộ thật là mời mọc, nhưng ông chủ thường xuyên không có cơ hội sử dụng nó. Một cái bếp lớn và tuyệt đẹp… chỉ dành cho những bữa cơm trưa ăn vội.

Nêu nhu cầu, đừng đưa giải pháp

Thường trong lúc trao đổi, đặt hàng với KTS, chủ nhà thường đưa luôn giải pháp của mình cho người thiết kế, khiến cho đối tượng lúng túng không biết phải ứng xử ra sao. Một cái mặt bằng đã được soạn sẵn, chìa ra cho KTS đã vô hình trung biến người thiết kế trở thành… “con tin” của đơn đặt hàng. Nhưng thực ra KTS cũng cần một số gợi ý mang tính cởi mở để cả hai cùng hình dung một xu hướng. KTS cũng rất cần sự nung sáng cảm hứng nghề nghiệp thể hiện bằng sự tin tưởng của chủ nhà vào mình.

Bao nhiêu tiền một mét vuông?

Theo tôi, hãy quên đi cái cách định giá kiểu này. Đây là cách để làm an lòng nhau theo kiểu thầy bói. Nhà có đóng cọc, ba tấm, mái ngói khác nhà mái ngói, ba tấm, không đóng cọc. Bao nhiêu tiền một mét vuông? Cửa nhôm, cửa gỗ, gạch ceramic hay gạch thạch anh, hai phòng vệ sinh, ba phòng vệ sinh? Bao nhiêu tiền một mét vuông? Và cứ thế hàng chục thông số khác nhau làm sao đi đến kết luận?

Một cái dự toán sau khi có thiết kế sẽ giải quyết hết mọi vấn đề nêu trên. Vì vậy, hãy quan tâm đến việc cùng KTS xây dựng một dự toán chi tiết sau khi thiết kế xong. Sau đó sẽ cân đối lại mức đầu tư trong vật liệu và thiết bị.

Hãy tỉnh táo với cái “sướng” của KTS

Nhàm chán với những giải pháp lặp đi lặp lại, thường các KTS có xu hướng sáng tạo (hay nói cách khác là “vặn vẹo”) thêm trong thiết kế của mình, đôi khi không thực tế lắm. Đó là cái đáng yêu của nghề nghiệp nhưng cũng là cái đáng cảnh giác. Thật khó khăn để đánh giá nên hay không nên nghe theo KTS. Chỉ có một điều, theo tôi, là hãy tuân thủ nguyên tắc: “công” rồi mới đến “dung”. Nghĩa là phải sử dụng tốt đã mới đến thẩm mỹ.

Phải tuân thủ nguyên tắc “tập trung dân chủ” trong nội bộ gia đình

Ở một số trường hợp ông chồng là người “quan trọng” nhưng bà vợ lại “quyết định” và những đứa con là “những nhân tố chính”. Đó là những bi kịch cho cái gọi là “chủ đầu tư không chuyên nghiệp”. Không thể có quá nhiều người có ý kiến thay đổi chỉnh sửa trong bàn bạc về việc thông qua thiết kế ngôi nhà. Chỉ nên có một người đại diện duy nhất để nói chuyện với KTS. Đó là cách tiết kiệm thời gian và công sức cả hai bên nhất.

Nên chọn người thiết kế hơn là chọn giải pháp thiết kế mình thích

Có nhiều người thường đi tham khảo “mẫu này mẫu kia” ở nhiều văn phòng KTS khác nhau để đi đến quyết định chọn ai làm cho mình. Thực tế là gặp một KTS phù hợp ta sẽ có nhiều giải pháp phù hợp để chọn lựa. Còn mẫu phù hợp chưa chắc đã được xử lý chi tiết bằng chính bàn tay của người thiết kế phù hợp.

Phải biết sản phẩm mua về gồm có cái gì?

Không hẳn là người thiết kế thiếu lương tâm, nhưng xu hướng giản lược các đòi hỏi của một hồ sơ có thể giúp rút ngắn thời gian, nhất là đối với công trình là nhà dân. Hãy yêu cầu người thiết kế nêu kế hoạch hồ sơ trước khi ký kết hợp đồng là điều nên làm. Điều này sẽ có lợi cho cả hai bên. Hồ sơ làm kỹ, nhiều chi tiết sẽ giảm được thời gian xử lý tại hiện trường của KTS và chủ nhân.

Trên đây là 10 việc cần quan tâm trước khi đặt hàng thiết kế một ngôi nhà. Viết ra những yêu cầu, những điều mình kỳ vọng là một cách làm khôn ngoan. Khoan vội tìm giải pháp, và dành thời gian tìm hiểu xem ai là người có thể giúp ta đi hết quá trình xây cất ngôi nhà. Khi tìm được người tư vấn rồi thì hãy nghĩ đến vai trò “thượng đế” của mình.

Làm “thượng đế” xem ra không dễ chút nào!

READ MORE

Tính toán chiều cao tầng nhà

Chiều cao nhà, chiều cao tầng và số tầng xây dựng thường phụ thuộc vào quy hoạch chung của khu vực. Đối với nhà ở tư nhân, vấn đề chiều cao tầng hoặc chiều cao phòng là đáng quan tâm và tính toán nhất.

Chiều cao nhà là khoảng cách từ nền tầng 1 (hoặc nền đất xung quanh) đến đỉnh cao nhất của mái nhà. Chiều cao tầng là khoảng cách giữa hai sàn nhà, được tính từ sàn tầng dưới đến sàn tầng kế tiếp.

h khach

Với một số gia chủ, chiều cao phòng thấp sẽ tạo cảm giác ấm cúng, gần gũi. Thế nhưng nhiều người lại cho rằng như vậy sẽ bị cảm giác nặng nề, đè nén. Ngược lại, chiều cao phòng lớn có thể tạo cảm giác thoáng đãng, sang trọng, tôn nghiêm, nhưng trong nhiều trường hợp tạo ra cảm giác trống trải, lạnh lẽo… Điều này còn phụ thuộc vào cách trang trí và công năng của phòng. Trong một căn nhà có nhiều không gian sử dụng với mục đích khác nhau, sẽ có cảm giác khác nhau đối với từng không gian sử dụng.

Các yếu tố ảnh hưởng đến chiều cao của tầng hay từng phòng:

– Chức năng của phòng: Phòng sinh hoạt chung, phòng khách là nơi tiếp khách, tập trung sinh hoạt gia đình nên cần tạo cảm giác rộng rãi và trang trọng. Chiều cao nên cao hơn các phòng khác, đôi khi có thể gấp đôi, nhất là đối với khoảng thông giữa hai tầng có diện tích rộng làm phòng khách, sinh hoạt chung, sảnh… Chiều cao gợi ý từ 3,6 m đến 5 m. Phòng thờ nếu cần cảm giác trang nghiêm, chiều cao không nên thấp hơn các phòng thông dụng. Phòng ngủ, phòng ăn, phòng bếp, phòng làm việc nên tạo cảm giác ấm cúng và tránh sự trống trải. Chiều cao phòng nên ở mức trung bình, khoảng 3 đến 3,3 m. Phòng để xe, phòng tắm, phòng kho là những khu vực có tần suất sử dụng thấp, chỉ nên thiết kế chiều cao vừa đủ để tiết kiệm không gian và tiết kiệm kinh phí xây dựng, khoảng 2,4 đến 2,7 m.

h bep

– Đặc điểm diện tích xây nhà: Nếu xây nhà từ 2 tầng trở lên, chiều cao tầng nhà sẽ tỷ lệ thuận với diện tích xây dựng cầu thang bộ. Đối với nhà có diện tích xây dựng lớn thì rất đơn giản khi quyết định chiều cao phòng. Đối với nhà có diện tích dành cho thang nhỏ thì không nên thiết kế tầng cao quá, sẽ gây nên tình trạng độ dốc thang lớn, gây khó khăn và nguy hiểm cho việc đi lại giữa các tầng. Trong trường hợp nhà nhỏ, mà điển hình là nhà lô nhỏ và hẹp chiều ngang, chiều cao phòng cũng không nên thay đổi nhiều, chỉ nên thống nhất cùng một độ cao, khoảng 3 m là thích hợp.

h bath

– Đặc điểm khí hậu: đối với những nhà ở khu vực khí hậu khắc nghiệt, hướng nhà chịu ảnh hưởng xấu của thời tiết và cần sử dụng điều hoà nhiệt độ nhiều thì chiều cao nhà chỉ nên vừa phải để tiết kiệm năng lượng làm mát hoặc sưởi ấm nhà. Chiều cao thích hợp là 3 m đến 3,3 m. Đối với những nhà ở khu vực khí hậu dễ chịu, cần sự thông thoáng tự nhiên, thì nên thiết kế chiều cao nhà lớn hơn, khoảng 3,6 m đến 4,5 m.

– Điều kiện kinh tế: đương nhiên thiết kế tầng nhà càng cao thì kinh phí xây dựng càng cao, kèm theo chi phí hoạt động, bảo dưỡng nhà cũng lớn hơn.

pk thongtang1

Tóm lại, đối với nhà ở tư nhân, chiều cao tầng (phòng) thông dụng nên phân làm 3 mức cơ bản: phòng thấp (từ 2,4 đến 2,7 m), phòng tiêu chuẩn (từ 3 m đến 3,3 m), phòng cao (3,6 đến 5 m). Căn cứ quy hoạch chung của khu vực, điều kiện khí hậu, đặc điểm của mảnh đất, chức năng sử dụng của từng không gian mà chúng ta sẽ chọn ra được chiều cao cho từng phòng và tầng một cách hợp lý và hiệu quả nhất.

READ MORE

Trụ sở chính của Liên Hợp Quốc

Trụ sở chính của Liên Hợp Quốc rất dễ được nhận ra giữa muôn vàn các cao ốc tại phía đông khu Manhattan (New York) bởi đó là một tòa nhà có kiến trúc khá đặc biệt, rộng nhưng mỏng, nằm trên diện tích hơn 7 ha.

Trên thực tế, quần thể trụ sở chính của Liên Hợp Quốc không chỉ có tòa nhà chính cao 39 tầng dành cho các cơ quan của Liên Hợp Quốc mà còn có 3 khối nhà khác gồm tòa nhà của Đại hội đồng (General Assembly building); khu hội nghị và Dag Hammarskjold Library (mới được bổ xung xây dựng năm 1961).

UN11

Quần thể này được thiết kế bởi 11 kiến trúc sư, trong đó phụ trách chính là Wallace K. Harrison (người Mỹ). Trụ sở chính của Liên Hợp Quốc là khu vực “quốc tế”, thuộc về tất cả các quốc gia thành viên. Nơi đây có lực lượng an ninh, cứu hộ, hành chính… riêng biệt.

Trụ sở chính của Liên Hợp Quốc được xây dựng từ năm 1949 và hoàn thành 4 năm sau đó. Đây là địa điểm làm việc của khoảng 3.400 nhân viên. Toàn bộ khu đất của quần thể các tòa nhà Liên Hợp Quốc được mua lại từ tập đoàn bất động sản lớn nhất nước Mỹ thời đó là William Zeckendorf với giá 8,5 triệu USD.

un22

Trước Mahattan, đã có San Francisco, Chicago, South Dakota… được cân nhắc để chọn làm nơi đặt trụ sở của Liên Hợp Quốc. Sau đó, có thông tin cho rằng Pháp, Anh và Hà Lan đã bỏ phiếu chống với việc xây dựng trụ sở ở Mỹ.

Thay vì tổ chức một cuộc thi chọn các mẫu thiết kế, Liên Hợp Quốc đã kêu gọi sự hợp tác của các kiến trúc sư hàng đầu thế giới, thuộc nhiều quốc gia khác nhau. KTS Wallace K. Harrison là người đứng đầu nhóm thiết kế, và các kiến trúc sư khác đến từ Liên Xô, Bỉ, Canada, Pháp, Trung Quốc, Thụy Điển, Brazil, Anh, Australia và Uruguay. 50 bản thiết kế khác nhau đã được cân nhắc trước khi phương án cuối cùng được lựa chọn. Phần cơ bản của thiết kế được sử dụng dựa trên phương án của KTS người Pháp, Le Corbusier.

u33

Yêu cầu đầu tiên đặt ra cho trụ sở chính của Liên Hợp Quốc, đó là tòa nhà cao tầng, có đủ chỗ làm việc cho các cơ quan. Độ cao 39 tầng với thiết kế hiện đại vào thời điểm đó gặp phải nhiều ý kiến không tán đồng. Tuy nhiên cuối cùng, nó lại là biểu tượng tiêu biểu của chủ nghĩa tân thời.

u55

Điểm nhấn của tòa nhà chính là hai mặt hướng tây và đông hoàn toàn được bao phủ bởi kính giảm nhiệt màu xanh, hấp thụ tốt ánh sáng mặt trời. Các khoang thoát khí được bố trí ở tầng 6, 16, 28 và 38 có thể dễ dàng nhìn thấy bằng mắt thường. Hai mặt hẹp hơn ở hướng bắc và nam sử dụng đá marbe Vermont.

Khi thiết kế được thông qua, cũng có một số ý kiến không tán đồng bởi nhiều người cho rằng tòa nhà có nguy cơ cháy rất cao. Nhưng trên thực tế, ở đây có hệ thống phòng cháy tốt, đặc biệt là đội ngũ chuyên nghiệp trong việc chống cháy. Toàn bộ tòa nhà được xây dựng với khoản vốn vay không tính lãi 65 triệu USD từ Chính phủ Mỹ.

 

READ MORE

Nội thất phòng khách hiện đại

Xu hướng thiết kế nội thất hiện đại đã thổi hơi thở mới vào những đồ nội thất thường ngày như giá sách, kệ tivi, tủ bát…làm cho những đồ vật này mang bộ mặt và cảm giác hoàn toàn mới.

Sự kết hợp giữa màu sắc, chất cảm của vật liệu cùng sự giảm thiểu những chi tiết trang trí cầu kỳ mà chỉ nhấn mạnh vào những chi tiết đơn giản nhưng lại là điểm nhấn của toàn bộ tác phẩm cũng như hình khối thiết kế thiên về những khối hình học cơ bản đã làm tăng giá trị thẩm mỹ của chúng.

fb48f2bb b8a3 49d8 af43 756

HMS – HORIZONT REOL SYSTEM

 

33

Day Collection

 

77

 

66

Jesper Holm

Trích từ thư viện của mình, WEDO gửi tới các bạn một số bộ sưu tập nôị thất theo phong cách design nội thất mới

READ MORE

Nội thất phòng khách sang trọng hơn với màn hình LCD

“Sốt” theo lộ trình cắt giảm thuế quan của AFTA, từ nhiều tháng nay nhiều người dân VN cũng đã bắt đầu “phát sốt” lên vì những chương trình giảm giá của các loại TV plasma và LCD. TV plasma và LCD đang là mốt thời thượng cho những căn phòng khách – phòng sinh hoạt chung của gia đình.

Không chỉ mang tính chất thời thượng và chỉ hiện diện ở biệt thự sang trọng , so với các ti vi cồng kềnh kiểu cũ, các loại TV plasma và LCD còn rất thích hợp để trang trí cho những ngôi nhà phố hoặc căn hộ chung cư có diện tích kiêm tốn bởi chúng rất gọn nhẹ và giúp giảm thiểu về độ chiếm không gian trong nội thất .

Với những căn nhà được trang trí theo phong cách đơn giản, chỉ cần một màn hình plasma hay LCD và một chiếc kệ trang trí tối giản cũng tạo nên một điểm nhấn trang trí sang trọng cho nội thất .

tv1

Muốn tiết kiệm diện tích hơn, những màn hình này thậm chí còn có thể gắn lên tường, dùng trang trí luôn cho cả căn phòng như một bức tranh theo lối đương đại . Đặc biệt, thời gian gần đây các nhà sản xuất trên thế giới cũng đã đưa ra chào hàng một công nghệ mới rất thời trang và đa năng, theo đó màn hình LCD còn có thể biến thành một chiếc gương soi khi không sử dụng ở chế độ thu phát hình.

Rất sành điệu, các loại thiết bị âm thanh theo cùng các loại TV plasma hay LCD này cũng thường được chọn là những loại hi-end, kiểu dáng đơn giản nhưng sang trọng.

Khoảng cách về giá cả đang ngày được rút ngắn, thậm chí đã rất ngắn, ngày đang có nhiều người tiêu dùng VN nhắm đến việc sở hữu một sản phẩm vốn từng được cho là khá xa xỉ này.

Cả thế giới đang phát sốt lên vì Word Cup. Sẽ tuyệt vời hơn khi bạn được tận hưởng những hình ảnh và âm thanh tuyệt vời từ sân cỏ với những công nghệ mới, nhất là khi chúng hiện diện ngay trong ngôi nhà thân yêu của mình…

 

READ MORE

Mành rèm tự động

Hệ thống mành rèm tự động thích hợp với những căn phòng diện tích lớn, có hệ thống khung cửa sổ rộng như các khu văn phòng, các căn hộ penthouse… Thay vì phải dùng sức và phải ra tận nơi để kéo từng chiếc rèm, người sử dụng chỉ cần một chiếc điều khiển từ xa.

Sản phẩm được nhập hoàn toàn từ Trung Quốc hoặc cao cấp hơn là Pháp, bao gồm cả vật liệu làm rèm (vải hoặc polyme), động cơ cho tới các loại phụ kiện khác.

rem 4

Rèm điện sử dụng hai loại động cơ. Với rèm kéo ngang, động cơ hình trụ, được lắp ở một bên của đường ray treo rèm. Công suất từ 30 đến 45 W. Còn với rèm cuốn, động cơ hình ống, nằm gọn ở phía trong ống cuộn rèm. Bộ điều khiển rèm gồm hai phần. Thứ nhất là một bộ nguồn điện kiêm thu nhận tín hiệu được gắn với động cơ. Bộ phận này giúp người dùng có thể trực tiếp điều khiển rèm bằng tay giống như cửa cuốn. Ngoài ra, nó còn là bộ thu tín hiệu điều khiển từ xa. Thứ hai là chiếc điều khiển cầm tay, có thể điều khiển trong phạm vi hàng trăm mét và xuyên tường.

rem 2

Nếu nhà bạn trang trí theo kiểu cổ điển, hệ rèm mở ngang sẽ rất hợp vì sử dụng vải rèm thông thường, cho phép bạn thay đổi tuỳ thích. Còn nếu nhà bạn thiết kế theo kiểu hiện đại, các loại rèm cuốn điện sẽ là l‎ý tưởng. Khi muốn che khung cửa, chỉ cần bấm nút, rèm sẽ từ từ buông xuống. Nếu bạn muốn ánh sáng vào, chỉ cần bấm nút cuộn rèm, tấm rèm sẽ được cuốn gọn lên phía trên bậu cửa. Không chỉ giới hạn ở các khung cửa sổ và mặt tiền, rèm điện còn có thể được ứng dụng để che các giếng trời, mái vòm kính…

Ưu thế rõ rệt nhất của sản phẩm là tạo sự tiện dụng cho người sử dụng. Dù một căn nhà có đến 10 bộ rèm thì cũng vẫn chỉ cần một chiếc điều khiển từ xa. Người dùng có thể cùng lúc mở hoặc đóng nhiều rèm, hoặc đóng mở từng chiếc theo ý ‎thích. Do điều khiển bằng sóng vô tuyến nên dù đứng ở chỗ nào trong nhà, bạn cũng vẫn có thể đóng mở rèm mà không lo bị vật cản như điều khiển TV.

rem 1

Về chất liệu rèm, bạn có thể chọn vải thường cho các loại rèm mở ngang, hoặc chọn vải dệt bằng polyme cho các loại rèm cửa kéo. Với vải polyme, không cần giặt mà chỉ cần lau bằng nước xà phòng loãng khi cần. Thời gian bảo hành thông thường cho một hệ thống là 5 năm. Tùy từng trường hợp, bạn cũng có thể sử dụng hệ thống rèm đã có sẵn trong nhà, chỉ cần lắp thêm động cơ.

Ngoài các ứng dụng cho gia đình, hệ thống mành rèm điện (màn sáo ngang, màn sáo dọc và rèm cuốn điện) cũng rất hợp với các văn phòng, công sở hiện đại. Đồng thời, các không gian cũng được sử dụng linh hoạt hơn với các tấm rèm hoạt động như các vách ngăn ảo, chỉ xuất hiện khi cần thiết.

Hiện sản phẩm này có giá thành tương đối đắt, gấp gần 3 lần so với sản phẩm thông thường, khoảng hơn 500.000 đồng/m2. Tuy nhiên, nếu bạn sử dụng với diện tích rộng, giá thành sẽ giảm bớt, chỉ khoảng hơn 300.000 đồng/m2 vì diện tích rộng hay hẹp cũng chỉ cần một động cơ.

READ MORE

Nhà xây chen trong khu 36 phố phường

Hà Nội là một thành phố có bề dày lịch sử ngàn năm. Nói tới Hà Nội phải nói tới Phố cổ Hà Nội – Khu đô thị cổ với tên gọi 36 phố phường. Đây là khu đô thị được hình thành từ trước thế kỷ 11 và tới nay còn giữ lại được nhiều di tích lịch sử, văn hoá, đặc biệt là không gian sinh hoạt truyền thống. Trong quá khứ, hiện tại và tương lai khu vực này luôn là:

– Một trung tâm thương mại, văn hoá lịch sử và du lịch của Thủ đô cũng như cả nước.

– So với Thế giới khu 36 phố phường của chúng ta có những nét rất riêng biệt, vì ở đó tồn tại cả hai giá trị vật thể và phi vật thể cùng nằm trên một phạm vi lớn (100 ha).

1. Về mặt bảo tồn

Không bảo tồn đơn lẻ từng công trình, hay cụm công trình mà phải bảo tồn được không gian đô thị, trong đó bao gồm cả giá trị di sản vật thể và phi vật thể của đô thị. Đó là hệ thống đường đi ngõ phố, cách sinh hoạt hàng ngày, sự kiếm sống luôn gắn với không gian đô thị.

Không phá vỡ cơ cấu không gian truyền thống. Đó là các ô phố hình thành theo các phường nghề truyền thống với hơn 80 ô phố to nhỏ khác nhau và các ngôi nhà hình ống thấp tầng mái dốc luôn có các sân trong.

Các công trình Tôn giáo tín ngưỡng gắn liền với sự hình thành của các phố nghề. Như đình Kim Ngân gắn với nghề vàng bạc và phố Hàng bạc, đình Lò Rèn gắn với nghề rèn và phố Lò Rèn…

Bảo vệ và phục hồi các ngành truyền thống cần chú ý đến sự quá tải về sức người, sức hàng và môi trường. Do vậy, cần cân nhắc nghề nào có thể phát huy được truyền thống nhưng không gây ô nhiễm môi trường và có tác động tốt tới kinh tế, văn hoá, du lịch.

Trong quan điểm bảo tồn và phát triển cần thấy rõ:

– Không phát triển kinh tế thì không thể bảo tồn được. Trong quá khứ, hiện tại và tương lai khu vực này vẫn là một trung tâm thương mại nên vấn đề phát triển kinh tế là điều tất yếu, nếu các biện pháp bảo tồn làm giảm sự phát triển kinh tế thì khu vực này sẽ tự lụi tàn.

– Không nâng cao cuộc sống hiện tại, thì không thể bảo tồn. Mâu thuẫn này nảy sinh ngay trong cuộc sống hàng ngày của cộng đồng, không đảm bảo chất lượng sống để theo đuổi mục tiêu bảo tồn, đây không phải một giải pháp thích hợp. Con người sẽ tự phá bức tường vô hình này và như vậy sẽ không kiểm soát được.

2. Về mặt cải tạo và nâng cao tiện nghi sống

Môi trường sống, đặc biệt là khu lõi của các phố có tình trạng ô nhiễm khá cao vì nó thiếu ánh sáng, thiếu thông thoáng gió nên độ ẩm cao. Do đó, mục tiêu trước mắt phải nâng cao điều kiện sống, như tăng diện tích ở, giảm mật độ cư trú và xây dựng, nâng cao chất lượng hạ tầng…

Tỷ lệ nhà cổ cần được bảo tồn chỉ chiếm xấp xỉ 10%, nhà cũ (có nét đặc trưng và xây trong khoảng thời gian từ 1901 tới 1945) chiếm khoảng 25%. Nhà mới xây dựng (có phép và không phép) chiếm 15%. Nhà không có giá trị bảo tồn và tình trạng kết cấu còn sử dụng được chiếm khoảng 15%, nhà không có giá trị bảo tồn nhưng đang trong tình trạng xuống cấp nguy hiểm chiếm tới 35%.

Do vậy, việc xây chen những ngôi nhà trong khu phố cổ là điều tất yếu và nó sẽ chiếm một tỷ lệ lớn. Xây mới, nhưng không phá vỡ cấu trúc không gian chung và hài hoà với những cái đã có, đó là hai điểm chính đòi hỏi đối với một ngôi nhà xây mới trong khu phố cổ.

Xem hình

3. Các dạng nhà ở

Những ngôi nhà ở hình thành theo cùng sự phát triển nhiều mặt của cả khu nên nó phản ảnh khá rõ những sự thay đổi. Nhìn vào cấu trúc các lớp nhà của các ô phố thấy một điểm khá rõ tiến trình xây dựng nhà ở đây:

– Gần như 100% các nhà ở đều có cửa hàng.

– Những ô phố hẹp nhà xây bám 2 mặt phố chính để lấp đầy ô phố.

-Những ô phố hình dáng gần vuông thì việc xây nhà cùng lúc theo 4 phố (xuất hiện của đường chéo, do sự kết thúc của các nhà ở góc phố) nên các nhà ở giữa phố thường có chiều sâu lớn hơn nhà đầu phố.

– Chiều rộng của các nhà phía tây của khu phố thường lớn hơn phía đông. Lý do của nó là phái đông là khu thương mại sầm uất có mật độ cư trú cao và hình thành trước, phần phía tây hình thành sau có ảnh hưởng nhiều của lối sống mới và phong cách kiến trúc mới.

– Dạng nhà ống là đặc trưng của khu phố cổ cho dù nó xây trước năm 1900, trong giai đoạn 1901 tới 1945 hay sau này, các nhà thường hẹp và sâu, có từ 1 tới 3 lớp sân trong.

– Các nhà kế sát nhau, nên khả năng thông gió và chiếu sáng kém, kết cấu móng phức tạp.

Những ngôi nhà nằm trong diện nghiên cứu cũng có những đặc điểm chung của nhà ở trong khu vực này và dựa trên kích thước của khu đất, cách bố trí sân trong có thể chia thành mấy dạng sau:

– Dạng nhà có chiều ngang <3,2m và chiều sâu từ 15 tới 60m, chiếm khoảng 40%.

– Dạng nhà có chiều ngang từ 3,2m tới 6m và chiều sâu từ 20 tới 50m, chiếm tỷ lệ khoảng 40%.

Dạng nhà có chiều ngang >6m và chiều sâu từ 30 tới 60m, chiếm khoảng 20%.

Trong các dạng nhà này cách bố trí các sân trong, phụ thuộc chính vào chiều sâu của nhà. Chiều sâu từ 15 tới 30m thường có 2 sân và không bằng nhau (sân trước lớn thì sân sau nhỏ hoặc ngược lại. Chiều sâu >30m thường có 3 sân này có tác dụng thông thoáng, lấy ánh sáng rất hiệu quả. Hiện tại do cơ cấu gia đình tăng, nên người ở đã tự cơi nới làm biến dạng những sân trong làm mất tác dụng của nó trong vai trò điều tiết vi khí hậu trong nhà.

4. Các ngôi nhà mới đã xây dựng tại khu phố cổ

Trong khu vực phố cổ do nhu cầu về cuộc sống như thiếu diện tích ở, làm nhà cho thuê nên đã có nhiều công trình được xây dựng theo nhiều kiểu cách khác nhau nên nó để lại không ít những khiếm khuyết trong xây dựng cũng như kiến trúc đồng thời làm hỏng cấu trúc truyền thống của các ô phố và các ngôi nhà. Nhưng cũng không thể phủ nhận được các mặt tích cực của chúng.

Những mặt tích cực:

– Đã góp phần giảm tỷ lệ những nhà xuống cấp nguy hiểm trong toàn khu.

– Những ngôi nhà có thiết kế và thiết kế có chú ý tới những quy định của việc xây dựng trong khu phố cổ và các tác giả cũng như chủ nhân hiểu biết về giá trị bảo tồn chung trong toàn khu đã làm đẹp thêm cho không gian và vẻ mặt của phố phường mà không phá vỡ hình ảnh chung. Nhưng tỷ lệ các công trình được đánh giá tốt còn quá ít.

– Nâng cao được tiện nghi sống (tăng diện tích ở, điều kiện tiện nghi của vệ sinh và bếp).

– Do các nhà làm mới đều sử dụng tầng một làm cửa hàng, nơi giao dịch vô hình chung đã làm sống lại không khí của đô thị xưa nhưng ở mức độ cao hơn. Điều này không phải đô thị cổ nào trên thế giới cũng làm được.

– Bước đầu tạo dựng được một số cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý và công nhân có kinh nghiệm trong việc tổ chức và thi công trong điều kiện chật hẹp, đòi hỏi phải chú ý tới việc bảo tồn chung cho khu phố cổ.

Những tồn tại:

– Không ít những công trình xây dựng đã làm mật độ xây dựng tăng thêm, do quá tận dụng đất để tăng diện tích cho các phòng để cho thuê.

– Làm tăng hệ số sử dụng đất (nhiều tầng) góp phần chất thêm người cư trú trong khu vực vốn đã đông dân.

– Chiều cao nhà lấn át các công trình kề bên.

– Kiểu cách, các chi tiết (ban công, cửa sổ…) và vật liệu trang trí không phù hợp với khung cảnh chung.

– Làm hư hại tới nhà bên cạnh trong quá trình thi công.

– Làm giảm khả năng thông thoáng, lấy ánh sáng chung.

5 pho co

5. Những kinh nghiệm của nước ngoài

Ở một số thành phố trên thế giới có phần đô thị cần bảo tồn đều có những quy định rất khắt khe trong xây dựng. Các quy định này dựatrên quy hoạch chi tiết của từng khu vực cụ thể và luôn bổ sung sửa đổi theo các tình huống xẩy ra trong thực tế. Qua những khảo sát và nghiên cứu cho thấy:

– Trong khu vực bảo tồn vẫn có thể cho phép xây chen những ngôi nhà mới.

– Những ngôi nhà mới phải tuân thủ các quy định chung và riêng của thành phố và khu vực bảo tồn với các chỉ số về quy hoạch, xây dựng…

– Quy mô thích hợp và chiều cao hoà nhập của công trình là yếu tố quan trọng. Trong từng khu vực cụ thể có quy định đường bao cho công trình (Envelope building), các công trình không được phép thừa ra ngoài đường bao này.

– Biện pháp thi công thích hợp và đội ngũ cán bộ, có đội ngũ công nhân chuyên về xây dựng trong các khu vực chật hẹp là cần thiết. Như vậy mới đảm bảo không gây ảnh hưởng tới sinh hoạt hàng ngày của dân cư.

– Biện pháp quản lý rất chặt chẽ, tất cả dựa vào luật và trong luật chỉ rõ phải tuân theo các thông số trên quy hoạch chi tiết (hay thiết kế đô thị cho từng khu vực). Tuyệt nhiên không có phạt tồn tại.

6. Những đề xuất trong việc xây chen nhà ở khu 36 phố phường

Trong quy chế quản lý phố cổ có nêu: giữ nguyên cấu trúc không gian, mạng lưới đường… nên trong phạm vi nghiên cứu không đề cập tới vấn đề quy hoạch chung, đồng thời tôn trọng các quy định có tính pháp lý của thành phố. Do vậy chỉ nêu những vấn đề liên quan tới loại nhà xây mới.

+ Về phương pháp luận

Quan điểm bảo tồn trong sự phát triển là gìn giữ những cái cũ có giá trị, hiện đại những cái đã lạc hậu, nhưng phải giải quyết được tính kế thừa, tính liên tục trong quá trình phát triển của đô thị.

Dựa trên quan điểm này xây dựng mô hình nghiên cứu. Lấy mục tiêu là gìn giữ cấu trúc không gian, cải thiện điều kiện sống. Từ đó nhìn nhận, cái gì là truyền thống:

– Mật độ, phong cách kiến trúc, vật liệu, tổ hợp không gian (trong đó các sân trong đóng một vai trò quan trọng), hệ thống kết cấu.

– Nhịp điệu đặc và rỗng (có thể xây dựng thành mô hình toán học về sự phân bổ giữa đặc và rỗng).

– Sự kết nối không gian (vị trí thì gần nhưng sự tiếp cận thì xa giống như câu nói “gần nhà xa ngõ”).

Để đưa tới mục tiêu mới trong nhà ở là:

– Mở rộng không gian cá nhân.

– Cải thiện môi trường sống.

– Làmphong phú không gian nội và ngoại thất.

– Gìn giữ không gian truyền thống và để cụ thể hoá mục tiêu này bằng một thiết kế với các nhiệm vụ phải giải quyết:

– Mảnh đất cụ thể nếu hẹp: phải chặt chẽ trong tổ hợp không gian, nếu rộng: khả năng tổ hợp phong phú hơn.

– Khối tích và dân số: trước hết, cải thiện điều kiện sống, giữ nguyên dân số và khối tích. Sau đó khai thác các tiềm năng để tăng dân số, tăng khối tích, đòng thời cải thiện môi trường sống.

– Tôn trọng và vận dụng sáng tạo các quy định về mật độ xây dựng (không gian 2 chiều, 2D) tỷ lệ giữa đặc và rỗng (không gian 3 chiều, 3D). Đặc là các không gian ở cần có tường bao bọc, rỗng là những không gian như sân trời, giếng trời, ban công.

Việc vận dụng các không gian đặc và rỗng (những sân trong, sân thượng) sẽ tạo ra một số hiệu quả:

– Tăng diện tích mặt tường ngoài nhờ tăng độ chiếu sáng tự nhiên và thông thoáng gió tự nhiên.

– Tăng chức năng sử dụng của một số bề mặt làm linh hoạt sân trong và sân thượng.

– Làm phong phú các không gian mở như sân trong, không gian hang mát, vườn treo, khoảng không gian thông tầng.

+ Về mật độ xây dựng và hệ số sử dụng đất

Để giữ nguyên hoặc giảm độ xây dựng phải chú ý tới việc bố trí các sân trong, tuyệt đối không cắt bỏ chúng (nó là đặc trưng của nhà phố cổ, như đã nói ở trên) trong việc làm giảm mật độ xây dựng các khoảng không gian mở khác cần có sự kết nối để tạo ra nhiều khoảng rỗng ta hình dung một khối có nhiều khoảng rỗng ở trong sẽ xốp và không khí sẽ qua nó dễ dàng. Khi nói tới mật độ và hệ số sử dụng đất không nên nghĩ chỉ có 2 chiều (2D) cần tính nó ở không gian 3 chiều (3D).

+ Về chiều cao của nhà

Là một yếu tố quan trọng trong việc giữ được nhịp điệu chung của khu phố, nên khi thiết kế cần căn cứ vào các điểm sau:

– Quy định chung của khu phố cổ (mặt giáp đường 12m, phía trong <16m).

– Thiết kế đô thị cho từng ô phố (hiện nay chưa có).

– Chiều cao của công trình đã được xếp hạng bảo tồn.

– Khả năng thông gió và chiếu sáng tự nhiên.

+ Về giải pháp kiến trúc

Tuỳ thuộc vào kích thước khu đất, vị trí và số lượng gia đình cư trú để đưa ra giải pháp cụ thể.

Đối với mảnh đất hẹp (<3m) nên tổ chức nhiều không gian rỗng (sân trong, khoảng thông tầng kết hợp với cầu thang) như vậy thuận tiện cho tổ chức nút giao thông và tăng độ thông thoáng cũng như lấy ánh sáng.

Đối với mảnh đất rộng từ 3,5m – 6m việc tổ chức không gian sẽ linh hoạt hơn, như tổ chức hành lang để thuận tiện giao thông và tăng sự riêng biệt, có thể tổ chức hai ba giếng trời và kết hợp với các khoảng trống để tăng sự đa dạng về các loại diện tích cho các gia đình.

Đối với mảnh đất có chiều rộng >6m, ngoài khả năng tổ hợp như loại thứ hai còn có thể mở rộng phần hành lang tầng trệt để tạo thành một “phố trong nhà” để tăng điều kiện kiếm sống cho người dân (hầu như các hộ đều có nhu cầu này).

+ Về hình thức mặt đứng và màu sắc ngoài nhà

Phải hoà nhập với các công trình xung quanh về chiều cao, hình dáng, kiểu cách và các chi tiết trang trí cũng như mầu sắc.

Khi dùng các thủ pháp tương phản phải cân nhắc để đạt được hiệu quả thẩm mỹ chung cho toàn khu vực.

+ Về giải pháp kết cấu và thi công

Nguyên tắc cơ bản nhất là không ảnh hưởng tới công trình bên cạnh và cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của cư dân. Do đó các giải pháp kết cấu nên dùng là:

– Giảm trọng lượng, tăng đọ cứng, độ bền. Trong khi chưa có điều kiện sử dụng các vật liệu như vậy thì khung BTCT đổ tại chỗ, sàn lắp ghép tấm nhẹ, hoặc đổ tại chỗ là thích hợp.

– Vật liệu bao che và ngăn cách dùng loại nhẹ và có chiều dầy nhỏ là thích hợp, đặc biệt đối với những nhà hẹp lòng.

– Các thiết bị như khu vệ sinh nên dùng loại liền khối (đúc sẵn liền xí, tắm, rửa vào một khối bằng nhựa có chất lượng cao) như vậy kích thước sẽ được giảm phù hợp không gian chật hẹp và thuận tiện lắp đặt.

– Thiết bị thi công và biện pháp thi công phải phù hợp.

7. Kết luận

Không thể tách rời nhưng vấn đề nêu trên để giải quyết vì chúng luôn luôn hoà quệt vào nhau.

Trong từng mảnh đất cụ thể, từng tuyến phố cụ thể, từng ô phố cụ thể mà các vấn đề nêu ở phân trên của bài này có mức độ quan trọng khác nhau.

Không thể áp dụng đồng đều độ cao như trong quy định tạm thời về quản lý của khu phố cổ vì ai cũng tận dụng tối đa chiều cao cho phép dần dần sẽ dẫn tới một sự đồng đều đơn điệu, cần nhanh chóng có thiết kế đô thị cho từng ô phố hay tuyến phố như vậy mới có khả năng bảo vệ được nhịp điệu sinh động của khu phố.

Cần có đơn vị thiết kế và thi công riêng cho khu vực này. Vì sự am hiểu điều kiện riêng của khu phố cổ và kỹ thuật bảo tồn là một yếu tố của sự thành công.

Việc quản lý là khâu hết sức quan trọng trong các khu vực cần bảo tồn. Công việc này phải dựa trên các cơ sở pháp lý và đặc biệt là thiết kế đô thị cho từng khu vực cụ thể. Công việc này dòi hỏi nhiều tiền và nhiều công sức nhưng là cần thiết.

READ MORE