Thiết kế này yêu cầu một trung tâm văn hoá mới thú vị trong quận mới Bảy viên ngọc trai (Seven Pearls) của Dubai. Dự án điểm nhấn này sẽ cung cấp một rạp hát, một nhà hát lớn, một triển lãm nghệ thuật, các trung tâm nghệ thuật biểu diễn và khách sạn chính trên một hòn đảo ở Dubai Creek tách khỏi phần đất liền của quận này.
Sân bay quốc tế Kansai, Osaka, Nhật Bản
Sân bay Quốc tế Kansai là công trình do kiến trúc sư Renzo Piano xây dựng trên một đảo nhân tạo giữa vịnh Osaka. Cây cầu ra sân bay dài 3.500 m. Phòng khách của nó dài 1,7 km.
Bảo tàng xoáy ốc Guggenheim – New York
Nhà bảo tàng được khởi công xây dựng tháng 6/1954 và hoàn thành vào tháng 8/1959, được xây bằng kết cấu bê tông chịu nén và lưới thép dưới sự thiết kế của kiến trúc sư Frank Lloyd Wright – một người chịu ảnh hưởng bởi kiến trúc Nhật Bản cổ điển, chuyên sưu tập những kiểu nhà ở nông thôn và sử dụng vật liệu thiên nhiên như gỗ và đá.
Đô thị cổ Hội An
Được UNESCO công nhận năm 1999.
Di sản văn hoá; Tiêu chí số: 2, 5.
Hội An, Haisfo, Haiso, Cotam, Faifo hay Đô Thị – Thương cảng, lâu đã đi vào lịch sử Việt Nam và đã được nhắc đến trong tư liệu nhiều nước Đông á, Đông nam á và một số nước phương Tây.
Đô thị – Thương cảng Hội An nằm ở hạ lưu sông Thu Bồn, cách thành phố Đà Nẵng 30km về phía Đông Nam. Phía Đông Đô thị cổ Hội An nối với biển Đông qua cửa Đại. Phía Nam giáp huyện Duy Xuyên, phía Tây giáp huyện Điện Bàn. Vào các thế kỷ trước, Hội An còn thông thương với Đà Nẵng bằng con sông Cổ Cờ. Thông qua sông Thu Bồn, Đô thị cổ Hội An nối với Kinh đô Trà Kiệu, với khu thờ tự Mỹ Sơn ở thượng lưu, và thông qua các đường sông, đường bộ, nối với núi rừng giầu lâm thổ sản miền Tây, cũng như với Kinh đô Phú Xuân – Huế ở phía Bắc và các Dinh trấn phía Nam. Hội An ở giữa vùng đồng bằng giầu có của xứ Quảng và giữ một vị trí đầu mối giao thông thuận lợi với các thị trường trong nước và với hệ thống hàng hải quốc tế.
Thương cảng Hội An hình thành trong khoảng thế kỷ 15-16, thịnh đạt trong thế kỷ 17-18, nhưng trước đó rất lâu (từ thế kỷ 2 SCN trở về trước), vùng đất Hội An đã nằm trong địa bàn phân bố của văn hoá tiền Sa Huỳnh – đến Sa Huỳnh và còn là một cảng thị trọng yếu của Champa (từ thế kỷ 2 đến thế kỷ 15). Cửa Đại Chiêm, Cù Lao Chàm cùng nhiều di tích văn hoá Champa cổ được phát hiện trong thời gian gần đây đã chứng minh về giai đoạn tiền đề trong lịch sử phát triển của đô thị – Thương cảng Hội An.
Trong thời thịnh đạt, đặc biệt trong nửa đầu thế kỷ 17, Hội An là trung tâm mậu dịch lớn nhất của Đàng Trong và cả nước Đại Việt, là một trong những thương cảng sầm uất của vùng biển Đông nam á. Trung tâm hoạt động của thương cảng là vùng bến cảng cùng phố chợ buôn bán nằm trên bờ biển Bắc sông Thu Bồn, nay là vùng nội thị của Thị xã Hội An gồm các phường Minh An, Sơn Phong, Cẩm Phô. Nhưng phạm vi thương cảng lúc đó còn mở rộng ra cả hai bên bờ Bắc, bờ Nam dòng sông bao gồm những nơi neo đậu tầu thuyền như đầm Trà Nhiêu, Trung Phường, Trà Quế…Cảng Sông Hàn ở phía Bắc và có thể coi đó chính là các vệ tinh của Đô thị – Thương cảng Hội An. Phía trên sông Thu Bồn là Dinh trấn Thanh Chiêm của Quảng Nam, nơi các tàu thuyền ngoại quốc muốn hoạt động buôn bán ở Hội An phải đến trình báo, là các thủ tục hải quan. Có thể hình dung Đô thị Hội An với không gian hoạt động rộng lớn như vậy.
Nhờ ở vào vị trí địa lý thuận lợi nên hàng hoá từ bốn phương trong nước tụ về Thương cảng Hội An. Rồi lại chính từ thương cảng này, hàng hoá trong nước với những sản phẩm nổi tiếng như tơ, tằm, gốm, sứ, trầm hương, yến sào…được thuyền buôn các nước chuyển tải đến nhiều nước Đông á, Nam á, Đông nam á và một số nước phương Tây. Hàng hoá nước ngoài cũng từ Hội An được toả khắp mọi miền đất nước.
Hội An là cửa ngõ của Đàng Trong – Việt Nam thông thương với thế giới bên ngoài. Tầu thuyền của Nhật Bản, Trung Quốc, các nước vùng biển Đông nam á như Thái Lan Philippin, Indonesia, Malaysia, ấn độ…và một số nước Châu Âu như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh, Pháp…hàng năm cập bến mở hội chợ từ 4 đến 6 thàng liền. Nhiều kiều dân nước ngoài, nhất là người Hoa, người Nhật đã được Chúa Nguyễn cho phép ở lại lập phố, mở cửa hàng buôn bán, được sống theo phong tục riêng. Thế kỷ 17, Hội An có “phố Nhật”, “phố Khách”, có thương điếm Hà lan…và đó là một trung tâm giao lưu kinh tế rộng lớn, một Đô thị- Thương cảng có tầm cỡ quốc tế. Đó cũng là kết quả của một thời kỳ đất nước mở cửa trong bối cảnh phát triển của hệ thống buôn bán với khu vực và thế giới. Trong thời kỳ này, Hội An còn là trung tâm giao lưu văn hoá Đông – Tây, là một trong những cái nôi chính hình thành chữ Quốc ngữ, là trung tâm truyền bá đạo Thiên chúa, đạo Phật ở Đàng Trong.
Sang thế kỷ 19, do nhiều nguyên nhân bên trong và bên ngoài, do cả những biến đổi của địa hình sông nước, hoạt động kinh tế và vai trò của Hội An suy giảm dần kết thúc thời kỳ thương cảng thuyền buồm và nhường chỗ cho thương cảng thuyền máy Đà Nẵng phát triển (từ cuối thế kỷ 19). Nhưng cũng nhờ đó, Hội An tránh được những biến dạng của một đo thị cận đại để bảo tồn cho đén ngày nay – một quần thể Đô thị – Thương cảng cổ tương đối nguyên vẹn. Đó là di tích của các bến cảng, các phố cổ, các nhà ở kết hợp cửa hàng của nhân dân, các hệ thống nhà thờ tộc họ, các đình chùa, đền miếu, các hội quán của người Hoa, những mộ người Nhật, người Hoa và chiếc cầu mang tên cầu Nhật Bản…Những loại hình kiến trúc phong phú đa dạng đó, cùng với lối sống, phong tục tập quán, lễ hội…của cộng đồng dân cư Hội An còn như tấm gương phản ánh chặng đường dài của quá trình giao thoa, hội nhập, tiếp biến văn hoá, tạo nên một sắc thái văn hoá riêng Hội An vừa mang tình dân tộc, bản địa, vừa có sự hài hoà giữa các yếu tố nội sinh và ngoại sinh.
Đô thi – Thương cảng Hội An với hạt nhân Phố cổ là di tích lịch sử, là di sản văn hóa vô giá thuộc loại quý hiếm trên thế giới đã được Chính phủ CHXHCN Việt Nam công nhận và xếp hạng di tích Quốc gia (năm 1985), được dư luận trong nước và thế giới trân trọng đánh giá cao. Năm 1985, Hội thảo Khoa học Quốc gia và năm 1990, Hội thảo Khoa học Quốc tế về Đô thị cổ Hội An đã được tổ chức ở ngay tại Hội An, tại Đà Nẵng với sự tham gia của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước. Năm 1995, Hội Bảo trợ Di sản Văn hoá – Kiến trúc Hội An được thành lập nhằm vận động những cá nhân và tổ chức trợ giúp cho công việc bảo tồn, tôn tạo khu di tích Phố cổ Hội An. Đặc biệt, ngày 01-12-1999, UNESCO công nhận Khu Phố cổ Hội An là Di sản Văn hoá Thế giới đã là khẳng định vị trí và sự góp mặt của Di sản Văn hoá Hội An trong kho tàng Di sản Văn hoá nhân loại.
Nhà hát Esplanade (sầu riêng) ở Singapore
Nhà hát Esplanade trên vịnh Marina là niềm tự hào của người dân đảo quốc sư tử Singapore. Họ gọi nhà hát với cái tên thân mật “Quả sầu riêng” vì thiết kế độc đáo. Tên gọi này cũng tự nhiên trở thành “ngôn ngữ quốc tế”.
“Nhà hát sầu riêng” là một trung tâm biểu diễn nghệ thuật “hoành tráng” nhất của đảo quốc Singapore, tọa lạc trên diện tích rộng 6 ha. Nhà hát chính có sức chứa 2.000 chỗ. Ngoài ra còn có một phòng hòa nhạc 1.600 khách. Esplanade có cả studio, thư viện, trung tâm nghệ thuật ngoài trời dành cho những buổi biểu diễn cuối tuần (chứa được khoảng 1.000 người trong đó có 200 chỗ ngồi), bãi đỗ xe ngầm, trung tâm thương mại, ẩm thực, khách sạn và trung tâm hội nghị quốc tế…
Công trình được thực hiện bởi hai công ty kiến trúc là Michael Wilford & Partners (có trụ sở chính tại London) và DP Architects (Singapore). Trong bản thiết kế đầu tiên được giới thiệu trước công chúng năm 1994, tòa nhà có những lớp kính trang trí xung quanh. Thiết kế này đã bị chê bai vì dễ gây hiệu ứng nhà kính, nhất là trong điều kiện khí hậu nhiệt đới tại Singapore. Chính vì vậy, Giám đốc DP Architects đã áp dụng một vài thay đổi. Giải pháp tạo “bóng mát” đã được sử dụng, đó là dùng vật liệu nhôm có sơn phủ, cách điệu thành những hệ mái nhỏ. Nhờ thế, nhà hát có dáng vẻ tương tự như quả sầu riêng. Và cái tên “Nhà hát sầu riêng” bắt nguồn từ đó.
“Nhà hát sầu riêng” mở cửa ngày 12/10/2002. Kinh phí đầu tư xây dựng ước tính khoảng 1 tỷ đô la Singapore. Nhà hát chính có sân khấu lớn nhất Singapore với kích thước 39 x 23 m. Với 4 tầng, gần 2.000 chỗ ngồi, nhưng tầm nhìn của khán giả sẽ không bị ảnh hưởng bởi hàng ghế xa nhất chỉ cách sân khấu khoảng 40 m. Phòng hòa nhạc có thể chứa được chừng 120 nhạc công một lúc. Nơi đây thường xuyên tổ chức những buổi biểu diễn mang tầm cỡ quốc tế. 84 máy tính được huy động để điều khiển hệ thống cửa ra vào. Mỗi cánh cửa có trọng lượng từ 3 đến 11 tấn, cánh lớn nhất có chiều cao 10,5 m, cánh nhỏ nhất là 2,2 m. Để phục vụ cho hoạt động, nhà hát có 4.470 ống kỹ thuật, với 610 điểm nối khác nhau.
Một studio nhỏ có thể chứa được 250 người là không gian lý tưởng cho những màn trình diễn phạm vi nhỏ, cũng như các buổi thuyết trình và gặp gỡ thân mật. Ngoài ra, còn có một sân khấu nhỏ khác, dành cho hơn 200 người, thích hợp cho các buổi tập của những nghệ sĩ sẽ biểu diễn trong sân khấu chính.
Khách du lịch đến Singapore hầu như đều không bỏ qua cơ hội thăm Esplanade vào tất cả các ngày trong tuần. Mỗi tour kéo dài 45 phút với giá vé cho người lớn là 8 đô la Singapore và trẻ em là 5 đô la Singapore.
Công trình cầu Goden gate – Sanfrancisco
Là biểu tượng của San Francisco, cầu lớn Golden Gate tạo hình màu vàng quýt sẫm làm tôn vẻ đẹp của cả nước Mỹ, là một trong những cầu kéo nghiêng dài nhất thế giới.
Ngày 27/5/1937, khi chiếc cầu lớn Golden Gate nối liền San Francisco và huyện Malin thông xe, những người từng tuyên bố cây cầu không thể hình thành đều đồng loạt im lặng.
Cầu lớn Goden gate
Để xây dựng xong công trình dài 2,7 km này, người ta đã phải hoạt động cật lực trong vòng 4 năm, với đủ gian nan vất vả, chiến thắng sóng lớn, nước chảy xiết và sương mù dày đặc cùng hàng nghìn người thương vong.
Cây cầu do công trình sư Joseph Strauss thiết kế, cố vấn kiến trúc là giáo sư Oven Noro. Trong thời gian 20 năm, khẩu độ của cầu Golden Gate được coi là lớn nhất thế giới. Thân cầu giữa hai tháo cầu có khoảng cách 1.280 m, tháp cầu cách mặt nước cao 227 m. Nến tháp cầu phía Nam là bộ phận nguy hiểm nhất của công trình này. Khi xây dựng đệm chạm bê tông khổng lồ, để thiết kế cửa ụ kiểu hòm nổi chìm xuống, công nhân phải bắc cầu trên xà lan, sóng lớn nâng họ lên, rồi ném họ xuống không thương tiếc.
Khi hai tháp cầu đã định vị, công nhân lại phải trèo lên đường thông hẹp treo lơ lửng giữa khoảng hai tháp cầu, cố định đường dây treo. Mỗi dây bằng thép đường kính 93 cm, do gần 30.000 sợi dây thép quấn thành. Cường độ cầu khiến người ta phải kinh sợ. Mỗi tháp cầu trên sợi dây thép phải chịu phụ tải vuông góc nặng 9,5 tấn. Mỗi gối thả neo ở bờ biển phải chịu sức chịu lực kéo khoảng 29.000 tấn.
Khi mới xây dựng cầu Golden Gate đã được sơn màu da cam quốc tế. Màu đỏ và màu da cam được coi là màu truyền thống của vật kết cấu thép, phòng gỉ truyền thống. San Francisco thường bị sương mù bao phủ, màu da cam giúp cho người đi đường nhìn rõ hơn hình ảnh cầu. Tuy nhiên, sương mù dày đặc nơi đây không ngừng phá hủy màu sơn truyền thống này. Các kiến trúc sư đã nghiên cứu siêng năng không mỏi mệt, phát minh ra cách pha chế sơn dầu vô hại, bảo lưu được màu da cam không bị tàn phai.
Rất nhiều đạo diễn điện ảnh đã chọn cảnh cầu Golden Gate cho bộ phim của mình. Golden Gate – một trong những bến cảng thiên nhiên an toàn nhất – mãi là niềm tự hào của thành phố San Francisco xinh đẹp.
10 điểm nên đến khi tham quan Paris
Paris – kinh đô ánh sáng – luôn là niềm mơ ước đỗi với mỗi người khi có dịp đặt chân tới. Mỗi viên gạch, mỗi công trình đều khiến ta phải trầm trồ và thán phục bàn tay tài hoa của con người. Nói đến Paris là ta nhớ đến Khải hoàn môn với đại lộ Champs Elysées rộng lớn, tháp Eiffel, nhà thờ Đức bà Parisvới câu chuyện về chàng Quasimodo và nàng Exmeralda xinh đẹp….
1. Thời Napoleon đệ tam, với tinh thần “đế chế”, nam tước Haussmann mở hàng loạt các quảng trường và trục đường lớn: 100km đường đô thị, 70km đường nông thôn. Việc chiếu sáng công cộng bằng khí đốt ở 32.320 điểm đã thực sự đem lại cho Parismỹ danh: Kinh đô ánh sáng. Công trình tiêu biểu nhất cho tình thần: hoành tráng – quyền uy – vinh quang của Parisđế chế là tổ hợp: trục đường Champs Elysées, quảng trường Ngôi sao và Khải hoàn môn. Cho đến nay, trên thế giới, chưa có đô thị nào có được một trục cảnh quan hoành tráng đến như vậy. Ý tưởng “đưa rừng Boulognevào Paris” của Nam tước Haussmann đã được thực thi. Quảng trường Ngôi sao do KTS Jacques Ignace Hittorff thiết kế với đường kính 240m, với 12 nhánh đại lộ toả ra như mặt đồng hồ, mà tâm điểm là Khải hoàn môn. Trục chính là đại lộ Champs Elysées rộng 70m. Các KTS cảnh quan Barillet-Deschamps, Jean-Charles Alphand là những người đã góp phần tạo nên một hình thức đại lộ tiêu biểu cho các đô thị hiện đại: đại lộ có dãy cây xanh lớn ở giữa và hai tuyến xe chạy 2 bên. Vào nă m 1806, Napoleon dự kiến đặt tại đây một Khải hoàn môn tôn vinh quân đội vĩ đại của mình. Đồ án được chọn là của KTS Jean Francois Chalgrin, theo tinh thần của Khải hoàn môn Titus ở Roma. Khải hoàn môn cao 50m, rộng 47m, dày 21m được dựng lên sừng sững. Tuy chưa bước chân qua cổng bao giờ, nhưng ông đã để lại cho Parismột công trình vĩ đại mà từ đó con người không dựng lại chiếc cổng nào lớn hơn nó. Đó là nơi mọi du khách đều đến chụp ảnh kỷ niệm, ngắm rồi mua sắm (đừng bỏ qua cơ hội chọn mua dầu thơm trong cửa hàng Sephora), nhâm nhi ly giải khát, tách cà phê hay ăn món nghêu luộc với khoai tây chiên trên đại lộ Champs – Elysées.
2. Nhà thờ Sacré Coeur, xây dựng từ 1876 đến 1914 theo kiểu thức La Mã – Byzantine, tuyệt đẹp nhờ tọa lạc trên ngọn đồi Montmartre, vòm cao 273 feet, là điểm cao thứ hai của thủ đô Paris sau tháp Eiffel. Đây là nhà thờ có lối kiến trúc đẹp mắt và rất vững chắc.
3. Trung tâm văn hóa Georges Pompidou (còn được gọi là Beaubourg) (1971-1978) được xem là nơi cất giữ nhiều kho tàng nghệ phẩm thế kỷ 20-21 do còn là “ngôi nhà của Bảo tàng nghệ thuật hiện đại” (40.000 tác phẩm nhưng chỉ trưng bày 850). Công trình giống như một nhà máy công nghiệp với các lồng kính trong suốt bao quanh các thang tự hành và thang bộ, cấu kiện kiến trúc phơi bày, không gian kiến trúc đa năng và uyển chuyển, khỏe khoắn, tinh gọn, chính xác và thôi thúc khám phá. Bước vào đây ta không chỉ có cảm giác đứng trong một tòa nhà văn hóa mà còn chứng kiến cỗ máy văn hóa đang hoạt động và sản xuất các sản phẩm văn hóa cho nước Pháp và thế giới. Công trình là tác phẩm của 2 KTS lớn: Richard Roger và Renzo Piano.
4. Tháp Eiffel được xây dựng nhân triển lãm Paris1889, 100 năm Cách mạng Pháp. Tháp mang tên Gustave Eiffel, người đã cùng Etienne Sauvestre, KTS Maurice Koechlin vượt qua sự phản đối của dư luận lúc bấy giờ để dựng nên một tòa tháp 3 tầng, có hai nhà hàng Altitude 95 (tầng 1) và Le Jules Verne (tầng hai), cao 320,755m (kể đến đỉnh anten vô tuyến truyền hình); chân đế rộng 124,906m. Ngày quang mây có thể phóng tầm nhìn ra xa 90km. Với 22.000 ngọn đèn, ban đêm, tháp Eifel rực sáng như một sao chổi, gởi những thông điệp văn hóa của người dân Paris đương thời cho các thế hệ mai sau. Mua vé leo lên tầng cao chót vót, bạn nhớ tìm nơi chỉ dẫn nhìn về hướng Sài Gòn ở cách đó gần 10.000km.
5. Hotel des Invalides được xây dựng để làm bệnh viện quân đội nhưng rồi đã là “chúng cư” của 4.000 gia đình, nhưng từ 1840 trở đi thì chuyển thành lăng tẩm của Napoléon.
6. Cung điện Louvre được xây dựng trong nhiều giai đoạn, nhưng chủ yếu theo phong cách cổ điển Pháp thịnh hành nhất dưới triều đại Louis XIV (1643-1715). Louvre cổ gồm các công trình bao quanh Sân Vuông, là tác phẩm của các KTS Pierre Lescot, Lemercier, Claude Perrault. Louvre mới được xây dựng dưới thời đệ nhất đế chế, mà tác giả là các KTS Percier và Fontaine, dưới thời đệ nhị đế chế là các KTS Visconti và Lefuel. Khải hoàn môn Carrousel là một cổng chào không lớn nhưng rất đẹp, giúp cho Louvre thêm trang trọng. Đứng ở vườn Louvre bên cạnh Khải hoàn môn, ta thấy tháp Eiffel ở bên trái. Còn đứng ở giữa cổng Khải hoàn môn này, ta nhìn thấy Trụ biểu (Obélisque) Ai Cập trên quảng trường Concorde và Khải hoàn môn ở quảng trường Ngôi sao, cả ba công trình này cùng nằm trên một đường thẳng.
Một công trình kiến trúc độc đáo mà ta không thể bỏ qua là Kim tự tháp thủy tinh của KTS người Mỹ gốc Hoa Ieoh Ming Pei. Với kích thước mỗi cạnh 35.40m; cao 21.65m; kim tự tháp thủy tinh có kích thước rất vừa phải và tỷ lệ thích hợp với không gian của tổng thể cung điện Louvre. Những kích thước này đã được tính toán kỹ lưỡng theo các quy luật tỷ lệ vàng được áp dụng từ xa xưa mà Leonardo da Vinci tổng kết.
Cung điện Louvre là nơi du khách nên dành ít nhất trọn một ngày tham quan vì có đến 400.000 nghệ phẩm, cổ vật (chỉ thường xuyên trưng bày 35.000 trong đó có tượng vệ nữ Milo, tranh Mona Lisa của Leonardo da Vinci, tượng nữ thần chiến thắng…).
7. Bảo tàng Cluny, xây dựng vào thế kỷ 15 để làm nơi ăn nghỉ, nay là một nơi cất giữ nhiều cổ vật La Mã, nghệ phẩm giá trị.
8. Bảo tàng Orsay cất giữ nhiều nghệ phẩm của các nghệ sĩ nổi tiếng trong thời gian từ 1848 đến 1914 như Monet, Delacroix, Manet, Courbet, Cézanne, Van Gogh, Renoir, Matisse…
9. Bảo tàng Picasso có 203 bức tranh, 191 bức tượng, 85 đồ sành sứ cổ và hơn 3.000 bản thảo, bức phác hoạ của nghệ nhân nổi tiếng nhất thế giới.
10. Nhà thờ Đức bà Paris, một kiệt tác và điển hình của kiến trúc gô-tích Paris, khởi công xây dựng năm 1163 và chỉ hoàn tất sau đó hai thế kỷ, là đại giáo đường Công giáo La Mã nổi tiếng nhất sau đền thờ Thánh Phêrô ở Roma. Nhà thờ cũng gắn liền với tác phẩm nổi tiếng “Thằng gù nhà thờ Đức bà” của đại văn hào Pháp Victor Hugo. Nhà thờ được xây trên nền 2 nhà thờ cũ: Saint Etienne và thánh đường Đức bà. Việc khởi công được tiến hành bằng buổi lễ đặt viên đá đầu tiên của giáo hoàng Alexandre III. Thánh đường gồm một sảnh chính với 10 gian; mỗi cánh bên gồm 2 tay, mỗi tay có 3 gian; một điện gồm 4 gian và hậu cung được vây quanh bởi hai dãy hành lang. Chiều cao tính đến đỉnh tháp là 63m.
Petronas Twin Towers – Tháp đôi Petronas
Petronas Towers tại thủ đô Kuala Lumpur của Malaysia hiện là tòa tháp đôi cao nhất thế giới. Công trình do kiến trúc sư người Argentina, César Pelli, thiết kế, và được hoàn thành vào năm 1998.
Petronas Towers có 88 tầng, mọc trên khu đất từng là một trường đua xe. Kết cấu tòa nhà phần lớn là bê tông cốt thép có khả năng chịu lực cực tốt. Bề mặt hai tòa tháp hoàn toàn bằng kính và thép, được thiết kế theo motip nghệ thuật đạo Hồi, tôn giáo chính tại Malaysia.
Do mặt bằng khá cứng, móng của Petronas Towers được đào sâu tới 120 m, một kỷ lục với các công trình xây dựng nhà cao tầng trên thế giới. Đã phải có một lượng bê tông khổng lồ được đổ ở phần móng để đảm bảo sự vững chắc. Điều kỳ lạ ở đây là mỗi công ty xây dựng chịu trách nhiệm thi công một tòa tháp và phải cạnh tranh nhau về tốc độ. Khởi công chậm hơn Công ty Hazama 1 tháng, nhưng Samsung Construction, phụ trách tòa tháp thứ nhất, đã thắng cuộc. Tuy nhiên, khi công trình hoàn thành, người ta phát hiện ra rằng cấu trúc của tòa tháp thứ 2 nghiêng so với phương thẳng đứng 25 mm.
Thiếu thép do chi phí nhập khẩu quá cao, tòa nhà đã được xây dựng theo thiết kế bê tông siêu chịu lực, một kết cấu khá quen thuộc ở châu Á, giúp tiết kiệm rất nhiều. Tuy nhiên, phần móng sẽ phải chịu sức nặng gấp đôi so với những tòa nhà kết cấu thép. Lõi bê tông kích thước 23 x 23 m và các cột siêu rộng vòng ngoài, tòa nhà thật sự là không gian lý tưởng cho các văn phòng. Ở đây có những khu vực làm việc rộng từ 1.300 đến 2.000 m2 mà không hề có cột.
Một điểm nhấn rất ấn tượng của tòa tháp đôi này là chiếc cầu trên không, có chiều cao 170 m và dài 158 m, nằm ở tầng thứ 41 và 42, nơi được xem là tầng chuyển vì du khách muốn lên những tầng cao hơn phải đổi thang máy tại đây. Bất kỳ khách du lịch nào khi đến thăm Petronas Towers đều được phép đi qua cây cầu đặc biệt này. Mỗi ngày, chỉ có 1.400 lượt người được vào tham quan và hoàn toàn miễn phí. Tòa nhà đóng cửa vào thứ hai hằng tuần.
Chiếc cầu cũng chính là nơi thoát hiểm, dùng trong các trường hợp hỏa hoạn hoặc sự cố khẩn cấp xảy ra ở một bên tháp. Ngày 12/9/2001, một ngày sau vụ khủng bố nước Mỹ làm sập tòa tháp đôi WTC ở New York, Petronas Towers cũng bị báo động đánh bom. Nhưng khi đó, khá nhiều lộn xộn đã xảy ra. Thực tế cho thấy, nếu trường hợp khẩn cấp xảy ra ở cả hai bên tháp thì chiếc cầu trên không cũng phải… bó tay.
Phía dưới của tòa tháp đôi là Suria KLCC, một trong những trung tâm thương mại lớn và hiện đại nhất Malaysia, và Dewan Filharmonik Petronas, của dàn nhạc Philharmonic nổi tiếng của Malaysia. Bên ngoài tòa nhà là một công viên có đường chạy bộ và lối đi dạo, một đài phun nước có trình diễn nhạc nước, hồ đi dạo và sân chơi trẻ em.
Tòa nhà thứ nhất hoàn toàn là trụ sở làm việc của Công ty Petronas, chủ đầu tư của công trình, và các công ty chi nhánh. Tòa tháp còn lại hầu hết dành để cho thuê. Một số công ty tên tuổi đặt trụ sở ở đây gồm Accenture, Al Jazeera International, Bloomberg, Boeing, IBM, Khazanah Nasional Berhad, McKinsey & Co, Microsoft và Newfield Exploration.
Bảy kỳ quan kiến trúc hiện đại
Tuần qua, tạp chí Condé Nast Traveler vừa công bố danh sách “Bảy kỳ quan thế giới” của thời đại mới. Đó là bảy công trình kiến trúc đồ sộ đã góp phần thu hút một lượng du khách tham quan khổng lồ cho quê hương, đất nước của chúng.
Đáng nể nhất vẫn là Mỹ với hai công trình kiến trúc đứng đầu bảng xếp hạng: Viện bảo tàng nghệ thuật đương đại (Modern Art Museum) ở Texas và Viện bảo tàng kính (Museum of Glass) ở Washington. Viện bảo tàng Modern Art Museum do kiến trúc sư người Nhật Tadao Ando thiết kế. Hầu như toàn bộ ánh sáng trong viện bảo tàng đều lấy từ mặt trời thông qua những bức tường kiếng khổng lồ. Những buổi bình minh và hoàng hôn là lúc viện bảo tàng đẹp hơn bao giờ hết. Nó lung linh huyền ảo như một ngọn hồng đăng bồng bềnh trên sóng nước.
Không chỉ thành công trên đất khách, những kiến trúc sư người Nhật cũng góp phần đưa tên tuổi của đất nước mình vào danh sách các nước có kỳ quan thế giới bằng công trình hồ bơi Shizuoka Prefectural Fuji (hạng năm). Lợi thế của công trình này là nằm ngay trong vùng du lịch trọng điểm của Nhật: vùng núi tuyết nổi tiếng Fuji. Hạng ba là đường trượt băng Bergisel Ski Jump ở Innsbruck, Áo. Tại đây người đã từng tổ chức hai kỳ thi Olympic vào năm 1964 và 1976. Hiện nay đường băng Bergisel Ski Jump được xem là nơi nghỉ hè lý tưởng nhất của nhiều du khách nước ngoài.
Lần lượt các thứ hạng bốn, sáu và bảy thuộc về các công trình kiến trúc sau: Falkirk Wheel của Scottland, Câu lạc bộ Bed Supperclub ở Bangkok, Thái Lan và Trung tâm Kingdom Centre ở Riyadh của Saudi Arabia. Có thể nói: Câu lạc bộ Bed Supperclub ở nước láng giềng đã tạo được tiếng vang lớn và là niềm hãnh diện chung của các nước Đông Nam Á. Hy vọng rằng một ngày gần đây chúng ta có công trình kiến trúc sánh vai cùng nước bạn Thái Lan.
Cánh buồm Dubai
Burj al-Arab là một trong những khách sạn sang trọng nhất thế giới, nằm ở Dubai (Các tiểu Vương quốc Ảrập Thống nhất). Công trình có hình dáng đặc biệt, giống như một cánh buồm đang no gió, do KTS Tom Wright của Tập đoàn WS Atkins PLC thiết kế.
Burj Al-Arab được khởi công năm 1994. KTS Tom Wright cho biết, chủ đầu tư muốn công trình phải trở thành một biểu tượng của Dubai, tương tự như nhà hát Opera ở Sydney hay tháp Eiffel của Paris. Tư vấn cho dự án này là Atkins, một đơn vị có tiếng của Anh, còn việc xây dựng do nhà thầu Murray & Roberts của Nam Phi thực hiện.
Với độ cao 321 m, Burj Al-Arab là công trình khách sạn cao nhất thế giới. Điều đặc biệt hơn nữa là Burj al-Arab không nằm trong đất liền mà trên một hòn đảo nhân tạo ngoài biển, cách bờ 280 m. Quá trình xây dựng rất kỳ công. Để đảm bảo cho một nền móng vững chắc, người ta đã sử dụng 230 cột móng dài 40 m để đóng xuống đất. Phần đảo nhân tạo được giữ chắc không phải bởi đá tảng, mà bằng những công nghệ mới tạo ma sát giữa cát biển với bùn dọc theo chiều dài của các cột ống cọc. Các kỹ sư xây dựng cũng làm một lớp bề mặt đá lớn, với hình dạng lược, để đảm bảo phần nền móng không bị xói mòn. Đã phải mất tới 3 năm để hoàn thiện phần móng, bằng đúng thời gian để xây dựng toàn bộ tòa nhà. Công trình tiêu tốn 70.000 tấn xi măng, 9.000 tấn thép, với tổng chi phí 1,5 tỷ USD.
Để giữ nhiệt độ cân bằng bên trong nội thất, một giải pháp được sử dụng là dùng hệ thống ống thông hơi nối thẳng từ mái và chôn sâu 1 m dưới lòng đất, tạo ra vùng đệm nhằm điều chỉnh nhiệt độ bên trong tòa nhà. Nhờ đó, không cần phải dùng tới nguồn năng lượng khổng lồ cho hệ thống điều hòa, không khí bên trong vẫn rất dễ chịu.
Sợi thủy tinh được sử dụng cho phần ngoại thất của khách sạn. Đơn vị thiết kế cho rằng đây là vật liệu tốt nhất để chống chọi lại thời tiết khắc nghiệt với nắng, gió, bão cát ở vùng sa mạc, và có thể duy trì trong vòng 50 năm.
Burj Al-Arab có thể được coi là khách sạn 7 sao nếu xét tới những khoản đầu tư hoành tráng, cho dù trên bảng xếp hạng của hệ thống khách sạn thế giới, 5 sao đã được coi là… đỉnh. Chính vì vậy, Burj Al-Arab có thêm cụm từ “sang trọng”. Khách sạn có khoảng 8.000 m2 tường, cột được dát vàng lá 22 carat và 24.000 m2 đá marble, gồm 30 loại khác nhau. Đây còn là khách sạn 5 sao đầu tiên vượt quá độ cao 305 m. Ngoài ra, Burj al-Arab có khu hành lang rộng và cao nhất thế giới, 180 m.
Vào buổi tối, Burj Al-Arab nổi bật giữa biển nhờ hệ thống chiếu sáng hiện đại, long lanh và ấn tượng. Một điểm nhấn trong thiết kế của khách sạn chính là sân đỗ máy bay trực thăng được “treo” lơ lửng gần đỉnh. Ngoài mục đích sử dụng chính, nơi đây còn từng được nhiều người nổi tiếng chọn để tổ chức các sự kiện tầm cỡ. Ca sĩ người Ireland, Ronan Keating, đã qauy môt clip của anh ở đây. Tháng 3/2004, tay golf số một thế giới, Tiger Woods, đã có màn biểu diễn golf từ nơi đây vào vịnh Persian. Tháng 2/2005, còn có một trận đấu quần vợt “đỉnh cao” giữa hai tay vợt hàng đầu thế giới là Roger Federer và Andre Agassi.
Phần nội thất của khách sạn do Khuan Chew, người đứng đầu tập đoàn Thiết kế nổi tiếng KCA International thực hiện, người đã làm Cung điện Vua Brunei, sân bay quốc tế Dubai, khu nghỉ dưỡng Jumeirah Beach, Madinat và còn rất nhiều công trình khác nữa.
Trông hoành tráng, nhưng khách sạn Burj al-Arab chỉ có 28 tầng với 202 phòng. Căn phòng nhỏ nhất có diện tích 169 m2, còn phòng rộng nhất là phòng Hoàng gia (Royal Suite) 780 m2. Đây là một trong những khách sạn đắt nhất thế giới, với chi phí cho mỗi đêm từ 1.000 đến 15.000 USD. Riêng phòng Royal là 28.000 USD.
The Burj al Arab nhận được nhiều lời ngợi khen nhưng cũng không ít chê bai. Nội thất của khách sạn theo kiểu vừa phương Đông với những chi tiết trang trí của kiến trúc Ảrập với cột, tường rườm rà… kết hợp cả với phương Tây thể hiện qua những đường nét hiện đại, màu sắc sử dụng táo bạo… đã khiến nhiều người cảm thấy không hài lòng. Ngoài ra, sự sa hoa, sang trọng thái quá thể hiện qua màn đầu tư hoành tráng cũng khiến một số quan chức thành phố Dubai khó chịu. “Thể hiện sự giàu có bằng cách tạo ra một khách sạn xa hoa như cung điện là điều thật lố bịch”.
Torso vặn mình, Tháp nghiêng của Malmo
Tòa nhà mới khánh thành cao 54 tầng, gồm 9 khối (mỗi khối 6 tầng) chồng lên nhau. Tính từ dưới đất lên tới nóc, tòa nhà này tự “vặn” quanh mình một góc đúng bằng 90 độ, trong đó mỗi tầng “vặn” 1,6 độ, một độ vặn nhỏ tới mức người ta không nhận ra bằng mắt thường nếu đang ở trong tầng đó. 13 tầng dưới được dung làm văn phòng. Các tầng trên dung làm nhà ở.
Một trong những tác phẩm kiến trúc độc đáo nhất thế giới.
Torso vặn mình có lẽ khôngphải là cái tên hay đặt cho toàn nhà cao chọc trời này, bởi khiến người ta liên tưởng tới một pho tượng bán thân không tay và không đầu của Hy lạp cổ đại, tức là một cái gì đó thiếu hoàn chỉnh. Năm 2001, khi “pho tượng kiến trúc” này được khởi công xây dựng, nó đã gây một làn sóng chống đối mạnh mẽ của công luận, bởi người ta cho rằng nó sẽ phá vỡ cảnh quan kiến trúc khá êm dịu của thành phố ven biển Malmo .
Thứ Bảy tuần qua nhà được khánh thành, hầu như chẳng có ai nhớ lại những chỉ trích đó nữa. Giờ đây nó được ca ngợi là “viên ngọc kiến trúc” của Malmo, thậm chí là một trong những biểu trưng cho cả Thụy Điển, như tháp nghiêng Pisa đối với Italia.
Có lẽ vì thế mà mặc dầu có giá thuê “cao đến tận mức láo xược” ( nhận xét của J. Klinberger, chủ tịch hội đồng những người thuê nhà Malmo trên báo Svenska Dagbladet), tất cả những căn hộ của Torso vặn mình đã được đăng ký thuê hết trước khi nó được xây dựng xong. Các căn hộ này rộng từ 45 đến 190 m2 được cho thuê với giá xấp xỉ từ 1,000 đến 3,500 USD/tháng. Thậm chí còn có một số người muốn ở đây vĩnh viễn, vì thế đã có căn hộ được bán đứt, với cái giá lên tới 1,7 triệu USD/căn…
Những người sống trong các căn hộ nền lát gỗ sồi và tường ốp đá granit đen được chăm sóc như trong một khách sạn: Tại phòng lễ tân có một đội phục vụ, sẵn sàng thuê taxi, đặt vé xem ca nhạc hay thu xếp một cuộc gặp gỡ nào đó cho họ. Ngoài ra người thuê nhà còn được sử dụng miễn phí những thiết bị của tòa nhà, như phòng xông hơi, trung tâm luyện tập thể hình, hầm rượu…Để di từ tầng 1 lên “công viên xanh” trên mái tòa nhà chỉ mất có 30 giây bằng thang máy.
Người thiết kế Torso vặn mình là kiến trúc người Tây Ban Nha Santiago Calatrava, 55 tuổi, tác giả của nhiều công trình rất nổi tiếng, gần đây có cầu Turtle Bay Bridge ở California, Sân vận động Olympic ở Athén, Thư viện của DH Zurich (Thụy Sĩ) hay bản thiết kế “Forham Spire” tòa nhà cao nhất thế giới (609m) sắp được khởi công xây dựng tại Chicago (Mỹ)… Trong lễ khánh thành Torso vặn mình , ông nói: “Người ta muốn tạo một cái gì thật độc đáo cho Malmo . Tôi hy vọng là sự mong muốn ấy đuợc thỏa mãn”.
Torso vặn mình – Viên ngọc của kiến trúc thế giới
Tuy nhiên người ta phải gợi ý để ông thiết kế tòa nhà độc nhất vô nhị này lai là Johnny Oerbaeck, nguyên giám đốc HSB, công ty kiểm soát ¼ diện tích nhà cho thuê của Malmo. Số là KS Santiago Calatrava được mời tham dự cuộc thi vẽ mẫu thiết kế cho chiếc cầu nối giữa Thụy Điển và Đan Mạch từ Malmo qua eo biển Oeresund. Đồ án dự thi của Calatrava khiến người ta trầm trồ khen ngợi vì trông rất đẹp. Chỉ tội không có tính khả thi, vì nó mang kiến trúc hình “xoắn”. Bị ấn tượng bởi đồ án thiết kế này, Oerbaeck đã đề nghị Calatrava sử dụng kiến trúc hình xoắn đó cho việc thiết kế một tòa nhà chọc trời.
Vậy là Torso vặn mình được xây dựng, gây ra không biết bao khó khăn cho HSB, bởi chi phí của công trình dội lên quá cao (1,6 tỷ Krona, gấp đôi so với dự toán) và thời gian thi công phài kéo dài thêm hai năm so với kế hoạch. Việc tòa nhà khởi công xây dựng đúng vào dịp xảy ra khủng bố 11/9/2001 tại New York , sự kiện khiếnngười ta tiên đoán thời đại của những tòa nhà chọc trời đã chấm dứt, càng khiến Oerbaeck phải hứng chịu những lời công kích, tới mức buộc ông phải xin từ chức.
Thật bất công cho Oarbaeck, bởi chính nhờ sự quyết tâm của ông mà giờ đây HSB tự hào được sở hữu một trong những viên ngọc kiến trúc của thế giới.