Skip to Content

Blog

Nghị định 17/2006/NÐ-CP của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai

Nghị định 17/2006/NÐ-CP của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần

CHÍNH PHỦ

Căn cứ vào Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;

Căn cứ vào Luật Đất đai ngày 26 tháng 11 năm 2003;

Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ trưởng Bộ Tài chính,

NGHỊ ĐỊNH

Điều 1. Phạm vi sửa đổi, bổ sung

Nghị định này quy định việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai (gọi là Nghị định số 181/2004/NĐ-CP), Nghị định số 182/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai (gọi là Nghị định số 182/2004/NĐ-CP); Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (gọi là Nghị định số 197/2004/NĐ-CP), Nghị định số 198/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 03 tháng 12 năm 2004 về thu tiền sử dụng đất (gọi là Nghị định số 198/2004/NĐ-CP), Nghị định số 187/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16 tháng 11 năm 2004 về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần (gọi là Nghị định số 187/2004/NĐ-CP).

Điều 2. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP

1. Sửa đổi khoản 2 Điều 30 như sau:

“2. Việc chấp hành tốt pháp luật về đất đai của người xin giao đất, thuê đất đối với trường hợp người xin giao đất, thuê đất đã được Nhà nước giao đất, cho thuê đất trước đó để thực hiện các dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Trên cơ sở bản tự kê khai của người xin giao đất, thuê đất về tất cả diện tích đất, tình trạng sử dụng đất đã được Nhà nước giao, cho thuê trước đó và tự nhận xét về chấp hành pháp luật về đất đai, Sở Tài nguyên và Môi trường nơi có đất đang làm thủ tục giao đất, cho thuê đất có trách nhiệm liên hệ với Sở Tài nguyên và Môi trường nơi có đất đã giao, đã cho thuê để xác minh mức độ chấp hành pháp luật về đất đai của người sử dụng đất trong quá trình thực hiện các dự án đã được Nhà nước giao đất, cho thuê đất.

Trường hợp người xin giao đất, thuê đất là tổ chức kinh tế không thuộc sở hữu nhà nước thì phải kê khai tất cả diện tích đất, tình trạng sử dụng đất mà Nhà nước đã giao, đã cho thuê đối với tổ chức kinh tế đó và các tổ chức kinh tế khác có cùng chủ sở hữu.”

2. Bổ sung khoản 4 vào Điều 30 như sau:

“4. Suất đầu tư trên một đơn vị diện tích đất được tính bằng tổng số vốn đầu tư trên đất chia cho tổng diện tích đất của dự án. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ vào tình hình cụ thể của địa phương để quy định suất đầu tư tối thiểu trên một đơn vị diện tích đất phù hợp với từng loại dự án và từng địa bàn đầu tư làm căn cứ cho việc thẩm định dự án và thẩm định nhu cầu sử dụng đất của dự án đầu tư.”

3. Bổ sung điểm đ và điểm e vào khoản 2 Điều 36 như sau:

“đ) Sử dụng đất để thực hiện các dự án đầu tư thăm dò, khai thác khoáng sản theo quy định của pháp luật về đầu tư và pháp luật về khoáng sản; sử dụng đất để làm mặt bằng di dời các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ theo yêu cầu bảo vệ môi trường hoặc theo quy hoạch mà không thể bố trí vào khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế.

e) Sử dụng đất để thực hiện các dự án đầu tư kết cấu hạ tầng phục vụ công cộng bao gồm các công trình giao thông, điện lực, thuỷ lợi, cấp nước, thoát nước, vệ sinh môi trường, thông tin liên lạc, đường ống dẫn xăng dầu, đường ống dẫn khí, giáo dục, đào tạo, văn hoá, khoa học kỹ thuật, y tế, thể dục, thể thao, chợ.”

4. Sửa đổi khoản 7 Điều 36 như sau:

“7. Không được chuyển đất đã giao để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, xây dựng khu công nghiệp, làm mặt bằng sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp sang mục đích xây dựng kinh doanh nhà ở, đất ở, trừ trường hợp được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 37 của Luật Đất đai cho phép chuyển mục đích sử dụng đất và phù hợp với căn cứ chuyển mục đích sử dụng đất quy định tại Điều 31 của Luật Đất đai.”

5. Sửa đổi điểm d và bổ sung điểm đ, điểm e, điểm g vào khoản 2 Điều 61 như sau:

“d) Trường hợp đất đưa ra đấu giá mà không có người tham gia hoặc đấu giá ít nhất là hai lần nhưng không thành hoặc trường hợp chỉ có một nhà đầu tư lập dự án xin giao hoặc thuê một diện tích đất cụ thể để thực hiện dự án đầu tư phù hợp với quy hoạch;

đ) Các trường hợp sử dụng đất để thực hiện các dự án đầu tư xây dựng nhà ở tái định cư, xây dựng nhà ở cho người nghèo và người có thu nhập thấp thuê hoặc mua, xây dựng nhà ở công vụ;

e) Trường hợp giao đất ở cho cán bộ, công chức chuyển nơi công tác theo quyết định điều động của cơ quan có thẩm quyền.

g) Đất chưa được bồi thường, giải phóng mặt bằng”.

6. Sửa đổi khoản 1 Điều 63 như sau:

“1. Doanh nghiệp nhà nước đang sử dụng đất do Nhà nước giao hoặc cho thuê mà thực hiện cổ phần hoá thì doanh nghiệp cổ phần hoá được quyền lựa chọn hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc thuê đất.”

7. Bổ sung khoản 7 vào Điều 84 như sau:

“7. Đơn vị sự nghiệp kinh tế tự đảm bảo chi phí hoạt động thường xuyên được cơ quan có thẩm quyền giao nhiệm vụ xây dựng kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp, nếu được Nhà nước cho thuê đất để đầu tư xây dựng kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp thì được cho thuê lại đất sau khi đã đầu tư kết cấu hạ tầng.”

8. Sửa đổi khoản 1 Điều 101 như sau:

“1. Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở để bán hoặc cho thuê được quy định như sau:

a) Đối với các thành phố, thị xã, các khu đô thị mới của các thành phố, thị xã hoặc các khu đô thị mới được quy hoạch phát triển thành thành phố, thị xã, không cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân dưới hình thức bán nền mà chưa xây dựng nhà ở. Chủ đầu tư được chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho tổ chức kinh tế đối với diện tích đất đã hoàn thành việc đầu tư xây dựng đồng bộ hạ tầng theo dự án được xét duyệt hoặc theo dự án thành phần của dự án đầu tư đã được xét duyệt; tổ chức kinh tế nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải sử dụng đất đúng mục đích, đúng nội dung xây dựng và tiến độ ghi trong dự án đó;

b) Đối với các khu vực khác, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các dự án đầu tư kinh doanh nhà ở được thực hiện như quy định tại điểm a khoản này, trường hợp có dự án đầu tư xây dựng đồng bộ hạ tầng khu dân cư thì chủ đầu tư phải hoàn thành đúng với nội dung dự án đã được xét duyệt thì mới được chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn với hạ tầng đó cho tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân.”

9. Bổ sung Điều 111a như sau:

“Điều 111a. Quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất đối với trường hợp được giao đất ở, đất làm mặt bằng sản xuất kinh doanh, đất để thực hiện các dự án đầu tư vì mục đích lợi nhuận mà được miễn hoặc giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất

1. Người được Nhà nước giao đất ở hoặc được Nhà nước cho thuê đất để thực hiện dự án xây dựng kinh doanh nhà ở mà được miễn hoặc giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất thì có các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về đất đai như trường hợp không được miễn hoặc không được giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất.

2. Người được Nhà nước giao đất để làm mặt bằng sản xuất kinh doanh, đất để thực hiện các dự án đầu tư vì mục đích lợi nhuận mà được giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất thì có các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về đất đai như trường hợp không được miễn hoặc không được giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với loại đất có mục đích sử dụng tương ứng.

3. Người được Nhà nước giao đất để làm mặt bằng sản xuất kinh doanh, đất để thực hiện các dự án đầu tư vì mục đích lợi nhuận mà được miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất thì có các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về đất đai như trường hợp Nhà nước cho thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm đối với loại đất có mục đích sử dụng tương ứng..

Trường hợp đang trong thời gian đầu tư xây dựng công trình mà người sử dụng đất không có khả năng tiếp tục thực hiện dự án thì Nhà nước thu hồi đất; tài sản đã đầu tư trên đất được xử lý theo quy định tại Điều 35 của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP.

Trường hợp dự án đã hoàn thành giai đoạn xây dựng cơ bản mà nhà đầu tư không có khả năng tiếp tục thực hiện dự án thì được bán tài sản gắn liền với đất; người mua tài sản được tiếp tục thực hiện dự án và phải sử dụng đất theo đúng mục đích đã được xét duyệt.”

10. Sửa đổi khoản 1 Điều 119 như sau:

“1. Hợp đồng hoặc giấy tờ khi người sử dụng đất thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải có chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc xác nhận của Ban quản lý khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao theo quy định sau:

a) Trường hợp chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất trong khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao thì phải có xác nhận của Ban quản lý khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao;

b) Trường hợp không thuộc quy định tại điểm a khoản 1 Điều này thì phải có chứng nhận của công chứng nhà nước đối với tổ chức, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài; phải có chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất đối với hộ gia đình, cá nhân; phải có chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất cho bên tham gia là hộ gia đình, cá nhân và bên còn lại là tổ chức, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài.”

11. Sửa đổi khoản 5, khoản 6 Điều 130 như sau:

“5. Trước khi hết thời gian thông báo ít nhất là hai mươi (20) ngày, Sở Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm trình Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về quyết định thu hồi đất .

Trong thời hạn không quá năm (05) ngày làm việc kể từ ngày nhận được tờ trình, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm xem xét, ký và gửi cho Sở Tài nguyên và Môi trường, Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định thu hồi đất. Quyết định thu hồi đất phải bao gồm nội dung thu hồi diện tích đất cụ thể đối với từng thửa đất do tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài sử dụng và nội dung thu hồi đất chung cho tất cả các diện tích đất do hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư sử dụng.

Trường hợp trên khu đất thu hồi có diện tích đất do hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng thì trong thời hạn không quá mười (10) ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định về thu hồi đất của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định thu hồi diện tích đất cụ thể đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư sử dụng.

6. Sau khi có quyết định thu hồi đất của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Tổ chức phát triển quỹ đất hoặc Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có trách nhiệm lập và trình phương án bồi thường, giải phóng mặt bằng.

Trong thời hạn không quá mười lăm (15) ngày làm việc kể từ ngày nhận được tờ trình, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm xem xét, ký và gửi cho Tổ chức phát triển quỹ đất hoặc Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định xét duyệt phương án bồi thường, giải phóng mặt bằng.”

12. Bãi bỏ khoản 3 Điều 149

13. Sửa đổi khoản 3 Điều 163 như sau:

“3. Trong thời hạn không quá bốn mươi lăm (45) ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh mà người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết đó thì có quyền khởi kiện ra Toà án nhân dân hoặc khiếu nại đến Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Trường hợp khiếu nại đến Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm giải quyết khiếu nại theo thời hạn quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo. Quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là quyết định giải quyết cuối cùng, phải được công bố công khai và gửi cho người khiếu nại, người khác có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.”

14. Sửa đổi khoản 3 Điều 164 như sau:

“3. Trong thời hạn không quá bốn mươi lăm (45) ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương mà người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết đó thì có quyền khởi kiện tại Toà án nhân dân.”

Điều 3. Sửa đổi Điều 7 của Nghị định số 182/2004/NĐ-CP như sau:

“7. Hình thức, mức độ xử phạt được xác định căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, hậu quả của hành vi vi phạm hành chính, nhân thân của người có hành vi vi phạm hành chính, tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng.

Tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng được áp dụng theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính.”

Điều 4. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 197/2004/NĐ-CP

1. Sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 1 Điều 3 như sau:

“b) Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất đã ứng trước tiền để thực hiện việc bồi thường, giải phóng mặt bằng thì được trừ số tiền đã bồi thường về đất, hỗ trợ về đất vào tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phải nộp cho Nhà nước; mức được trừ không vượt quá số tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phải nộp;”

2. Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 9 như sau:

“1. Giá đất để tính bồi thường là giá đất theo mục đích đang sử dụng đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định và công bố; không bồi thường theo giá đất sẽ được chuyển mục đích sử dụng; trường hợp tại thời điểm có quyết định thu hồi đất mà giá này chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường thì Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định giá đất cụ thể cho phù hợp.”

3. Bổ sung khoản 3 vào Điều 28 như sau:

“3. Trường hợp hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất có mức sống thuộc diện hộ nghèo theo tiêu chí hộ nghèo do Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội công bố trong từng thời kỳ thì được hỗ trợ để vượt qua hộ nghèo; mức hỗ trợ và thời gian hỗ trợ cụ thể do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định nhưng không dưới 3 năm và không quá 10 năm kể từ ngày hoàn thành việc thu hồi đất.”

4. Sửa đổi Điều 29 như sau:

“ Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp bị thu hồi trên 30% diện tích đất nông nghiệp mà không được Nhà nước bồi thường bằng đất nông nghiệp tương ứng thì được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm theo quy định sau đây:

1. Được giao đất có thu tiền sử dụng đất tại vị trí có thể làm mặt bằng sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ phi nông nghiệp; mức đất được giao do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào khả năng quỹ đất và mức đất bị thu hồi của từng hộ gia đình, cá nhân để quy định; giá đất được giao bằng giá đất nông nghiệp tương ứng cộng với chi phí đầu tư hạ tầng trên đất nhưng không cao hơn giá đất tại thời điểm thu hồi đất đã được Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định và công bố;

2. Trường hợp đặc biệt không có đất để bố trí như quy định tại khoản 1 Điều này thì những thành viên trong hộ gia đình còn trong độ tuổi lao động được hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp; mức hỗ trợ cụ thể do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định phù hợp với thực tế ở địa phương; việc hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp được thực hiện chủ yếu bằng hình thức học nghề tại các cơ sở dạy nghề.”

5. Bổ sung khoản 3 vào Điều 36 như sau:

“3. Hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất ở phải tái định cư thì việc bố trí tái định cư phải gắn với tạo việc làm hoặc chuyển đổi nghề nghiệp theo quy định sau đây:

a) Nếu là hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp mà không được Nhà nước bồi thường bằng đất nông nghiệp tương ứng với đất nông nghiệp đã bị thu hồi thì việc bố trí tái định cư được gắn với giao đất làm mặt bằng sản xuất, dịch vụ phi nông nghiệp như quy định tại khoản 1 Điều 29 của Nghị định này;

b) Nếu là hộ gia đình, cá nhân sản xuất, dịch vụ phi nông nghiệp thì việc tái định cư phải gắn với tạo việc làm từ sản xuất, dịch vụ phi nông nghiệp; trường hợp đặc biệt không có đất đủ điều kiện để tái định cư gắn với tạo việc làm từ sản xuất, dịch vụ phi nông nghiệp thì hộ gia đình, cá nhân được hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp theo quy định tại khoản 2 Điều 29 của Nghị định này.”

6. Sửa đổi khoản 2 Điều 48 như sau:

“2. Kinh phí đảm bảo cho việc tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư được trích không quá 2% tổng số kinh phí bồi thường, hỗ trợ của dự án; mức cụ thể do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định phù hợp với thực tế ở địa phương và tùy theo quy mô, tính chất, đặc điểm của từng loại dự án; việc chi tiêu, thanh quyết toán được thực hiện theo quy định của pháp luật.

Tổ chức phát triển quỹ đất hoặc Hội đồng bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cấp huyện khi thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho nhiều dự án trên địa bàn thì có thể cân đối mức kinh phí được trích của từng dự án cho phù hợp với thực tế nhưng phải bảo đảm tổng kinh phí tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của các dự án không quá 2% tổng số kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của các dự án đó.”

Điều 5. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 198/2004/NĐ-CP

1. Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 4 như sau:

“2. Giá đất tính thu tiền sử dụng đất là giá đất theo mục đích sử dụng đất được giao đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định và công bố; trường hợp tại thời điểm giao đất mà giá này chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường thì Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định giá đất cụ thể cho phù hợp.”

2. Sửa đổi, bổ sung điểm a khoản 2 Điều 6 như sau:

“a) Chuyển từ đất vườn, ao trong cùng thửa đất có nhà ở thuộc khu dân cư không được công nhận là đất ở sang làm đất ở thì thu tiền sử dụng đất bằng 50% chênh lệch giữa thu tiền sử dụng đất tính theo giá đất ở với thu tiền sử dụng đất tính theo giá đất nông nghiệp;

Trường hợp hộ gia đình, cá nhân được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chuyển mục đích sử dụng đất từ đất vườn, ao không được công nhận là đất ở hoặc đất nông nghiệp sang đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp thì thu tiền sử dụng đất bằng chênh lệch giữa thu tiền sử dụng đất tính theo giá đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp với thu tiền sử dụng đất tính theo giá đất nông nghiệp;”

3. Sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 11 như sau:

“4. Không áp dụng miễn, giảm tiền sử dụng đất trong trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất; chuyển từ hình thức thuê đất sang hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh, trừ trường hợp khi chuyển sang hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất thuộc đối tượng được miễn tiền sử dụng đất quy định tại Điều 12 của Nghị định số 198/2004/NĐ-CP.’’

4. Bổ sung khoản 4 và khoản 5 vào Điều 15 như sau:

“4. Hộ gia đình, cá nhân được chuyển mục đích sử dụng từ đất vườn, ao trong cùng thửa đất có nhà ở thuộc khu dân cư nhưng không được công nhận là đất ở hoặc chuyển mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp sang đất ở phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định tại Điều 6 của Nghị định này và hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định tại Điều 8 của Nghị định này, nếu chưa đủ khả năng nộp tiền sử dụng đất cho Nhà nước thì được ghi nợ số tiền sử dụng đất phải nộp trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; số tiền sử dụng đất ghi nợ được tính theo giá đất tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Khi hộ gia đình, cá nhân thực hiện các giao dịch về quyền sử dụng đất (chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất), tặng cho quyền sử dụng đất đối với người ngoài diện thừa kế theo quy định của pháp luật dân sự (trừ trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 Điều 110 của Luật Đất đai) hoặc được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi thì phải nộp cho Nhà nước số tiền còn nợ. Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Phòng Tài nguyên và Môi trường nơi có đất có trách nhiệm chỉnh lý xoá số tiền nợ đã ghi trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong các trường hợp hộ gia đình, cá nhân đã nộp đủ tiền sử dụng đất còn nợ cho Nhà nước.

Các giao dịch quyền sử dụng đất đối với đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn ghi nợ tiền phải nộp cho Nhà nước đều không có giá trị pháp lý;

5. Tổ chức kinh tế được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất để đầu tư được nộp tiền sử dụng đất theo tiến độ giao đất ghi trong dự án đầu tư đã được xét duyệt”

5. Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 17 như sau:

“1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà đất đó đã sử dụng từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành, đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nếu còn nợ tiền sử dụng đất thì được tiếp tục ghi nợ và phải nộp tiền sử dụng đất vào ngân sách nhà nước theo quy định tại khoản 4 Điều 15 của Nghị định này.”

Điều 6. Sửa đổi điểm b khoản 1 Điều 19 của Nghị định số 187/2004/NĐ-CP như sau:

“b) Trường hợp doanh nghiệp cổ phần hoá lựa chọn hình thức giao đất thì phải tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá theo giá đất đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định và công bố; nếu giá này chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường tại thời điểm cổ phần hoá thì Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định giá đất cụ thể cho phù hợp. Trình tự và thủ tục giao đất, nộp tiền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành về đất đai.”

Điều 7. Điều khoản thi hành

Nghị định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.

Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.

Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định này.

READ MORE

London chuẩn bị sân vận động mới cho Olympic 2012

Chiến lược của kế họach này là lọai bỏ việc xây dựng những tiện ích mà không còn sử dụng một khi cuộc tranh tài kết thúc và mở ra một khỏang không gian lớn cho sự phát triển rộng hơn bao gồm 5400 đơn vị nhà ở và những quảng trường thương mại ở Lower Lae Vallwey – nơi thế vận hội được tổ chức.

Ít nhất 3 khu thi đấu trong nhà – bao gồm 12000 chỗ ngồi cho bóng chuyền và bóng rổ ờ công viên Olympic London, và một sân vận động 6000 chỗ cho bóng ném toạ lạc gần mái vòm Thiên niên kỷ – dự kiến là những nơi sẽ di chuyển tới sau mỗi trận thi đấu. Người phát ngôn của London 2012 nói rằng những kiến trúc cho thi đấu kiếm thuật và bơi lội cũng có thể là kết cấu di động.

stadium cover

Những kết cấu có thể tái sử dụng được làm bằng thép, chỗ ngồi từ thép định hình, theo lời của David Henderson , thành viên của công ty thiết kế đang tiến hành dự án Laing O’Rourke (Anh). Cấu trúc khung thép nhìn tựa như cái kén sẽ được bắt xuống mặt bằng, chỗ ngồi được treo bằng cần cẩu. Tương tự như vậy, phòng vệ sinh và phòng thay quần áo sẽ được chế tạo trước và sau đó đặt vào trong khung. Tòan bộ SVĐ được che phủ bởi mái teflon (vật liệu tổng hợp bền, nhẹ), có khả năng chịu trong lượng của dàn ánh sáng, bảng ghi điểm và cà tuyết.

Cuối cùng, James Bulley, giám đốc họat động London 2012 phát biểu “Dự án này cung cấp một cơ hội để thực hiện một dự án khả thi mà có lẽ chưa bao giờ khả thi trước đây”.

READ MORE

Nghệ thuật ghép mảng trong kiến trúc

Mosaic có nguồn gốc từ thời Hy Lạp cổ đại với ý nghĩa nguyên thủy là “loại nghệ thuật xứng đáng với trí tưởng tượng bay bổng và lòng kiên trì vô biên”, thuộc loại nghệ thuật có tuổi đời lâu nhất của loài người.

Biểu hiện tư duy tiền ngôn ngữ của con người bắt đầu bằng những kí hiệu thị giác chứa đựng và truyền tải ký ức, thông tin trong cộng đồng nguyên thủy. Đồ hoạ và ghép mảnh là hai phương tiện nguyên thuỷ về thông tin và mỹ thuật được con người sử dụng đầu tiên.

Khó có thể xác định được nguồn gốc chính xác của nghệ thuật ghép mảnh, bởi vì ở đâu cũng có nhưng những gì còn lại đến nay ở vùng cận Đông, Bắc Phi và Tây Ban Nha dễ dàng cho người ta thấy nghệ thuật ghép mảnh đã phát triển mạnh và đạt đến tầm cao nghệ thuật cũng như có quy mô áp dụng rộng lớn, phổ cập. Từ chốn dân dã đến nơi sang trọng, toát được cái hồn giản dị hay lộng lẫy thâm nghiêm; từ một vật dụng quen thuộc hằng ngày hay cả một lâu đài tráng lệ… Nghệ thuật ghép mảnh được người Ả-rập phát triển từ thời cổ đại, rồi được đế chế đông La Mã và các Vương quốc Hồi giáo phổ biến và nâng cao. Đạt đến cực điểm là các Thánh đường Hồi giáo ở Istanbul (Byzantin) và Thánh đường Corboda, Hồi cung Alhambra ở Tây Ban Nha.

ghep-mang-kien-truc-1

Ngày nay, nghệ thuật ghép mảnh đã lan toả khắp mọi nơi, ứng dụng rộng trong nhiều lĩnh vực, nhưng đắc dụng nhất là trang trí nội ngoại thất kiến trúc.

Những đặc tính nổi trội của vật liệu Mosaic như gam màu rộng, bền vững theo thời gian, chuyển tải mọi kỹ thuật thể hiện và nội dung diễn đạt, Mosaic dần thay thế những bề mặt rộng của mặt đứng kiến trúc; làm thành những bức tranh tường lớn trong đô thị, biến những tấm ngăn nội thất bằng bê tông phủ sơn tổng hợp đơn màu thành những tấm ngăn trong nhẹ, lung linh với ánh sáng đa màu, biến những mặt phẳng vô tri, phi hình thành hữu hình mang đầy ý nghĩa thi vị…

Vốn được tạo nên từ vô số phần tử nhỏ bé, nghệ thuật ghép mảnh được cảm nhận với một chút liên tưởng tạo hình về đường nét hình khối. Biểu chất thị giác trong suốt, bóng bẩy hay sần sùi thô nhám đều được các phần tử siêu nhỏ đó tạo nên. Điều kỳ diệu là khi ta đặt các hợp thể siêu nhỏ đó với một góc nghiêng rất bé, các mặt phản quang li ti của Mosaic tạo thành các mảng đốm nhỏ lung linh dưới ánh sáng ban ngày hay ánh sáng điện.

Từ kiến trúc cổ đại, kiến trúc Phục hưng, kiến trúc chiết trung hay hiện đại, kiến trúc kỹ thuật cao hay kiến trúc bản địa, kiến trúc hậu hiện đại hay kiến trúc sinh thái… bạn đều có thể tìm thấy nghệ thuật ghép mảnh – mosaic art. Chúng có mặt ở phòng tắm, nhà bếp, trong nền sảnh hay ngoài vườn, trên tường hay phủ cầu thang. Chúng là một thiết bị đô thị hay một điêu khắc trang trí trên quảng trường hay trong công viên và thực tế nhiều kiến trúc sư đã sử dụng các thủ pháp hay công nghệ ghép mảnh, vấn đề là mỗi tác giả có ý thức và ý đồ để biến các thuật pháp và công nghệ đó thành một thao tác nghệ thuật như thế nào.

Nền hè đường đô thị được ghép từ muôn vàn thành tố nhỏ. Tại sao cái bề mặt rộng và dài ấy không thể là một design ghép mảnh mà chỉ đơn thuần là một diện tích để đi bộ? Các mặt tường trong bếp nhà bạn chẳng được ghép được từ hàng trăm viên gạch men, ta có thể thêm vào đó vài phép biến hình của gốm thuỷ tinh hay gốm nghệ thuật để tạo nên cái riêng của bếp. Các bức tường lớn, các phân vị ngang hay đứng, hộp thang… đều có thể là các địa chỉ hấp dẫn của nghệ thuật ghép mảnh…

Với lợi thế chịu mài mòn, độ cứng cao, chịu nén tốt, chịu nước, chịu axít, kiềm muối, bền màu không bám bụi, bám rêu và cơ chế tự làm sạch và đặc biệt, với kiến trúc sư, là gam màu rộng thỏa mãn mọi yêu cầu tạo hình của kiến trúc sư. Được chế tạo từ những hạt nhỏ cùng với bảng màu phong phú của mình, mosaic giúp cho các nhà thiết kế tự do sáng tạo mà không phụ thuộc vào các nhà sản xuất vật liệu, còn đơn vị thi công thì dễ dàng trong việc ốp lát các mặt cong, gấp khúc, gồ ghề mà không cần đến các trang thiết bị cắt mài đắt tiền.

Màu sắc của gạch luôn tươi sáng và bền vĩnh cửu do được tạo thành từ các oxide kim loại trong quá trình nung chảy thủy tinh ở nhiệt độ cao và sự trong trẻo, sâu thẳm của màu sắc cùng với bề mặt bóng bẩy, lung linh đã làm cho vật liệu này trở nên sang trọng đúng như tên gọi của mình.

READ MORE

Nhà hát Opera Sydney

Nhà hát Opera Sydney – niềm tự hào của đất nước Australia – tọa lạc trên cảng Sydney, kế bên chiếc cầu Cảng nổi tiếng, thuộc bang New South Wales. Đây là một trong những công trình đặc biệt nhất của thế kỷ 20, là một trong những khu biểu diễn nghệ thuật ấn tượng nhất thế giới.

Nhà hát Opera Sydney đặt trên mũi đảo Benelon Point của thành phố Sydney. Miền đất này là trung tâm văn hoá đẹp nhất và gây nhiều cảm xúc nhất của châu Úc. Từ tháp Sydney cao 325m, bạn phóng tầm mắt về phía các toà nhà chọc trời, vô số công viên, hải cảng, biển và những dãy núi xanh chạy dọc theo đường chân trời. Do có kiến trúc độc đáo, nhà hát Sydney là một trong những biểu tượng không thể nhầm lẫn của trung tâm văn hoá Úc.

SO5

Sydney Opera House – niềm kiêu hãnh của người Australia.

Tòa nhà, cùng với cảnh vật xung quanh đã tạo nên một hình ảnh tượng trưng cho đất nước Australia. Đây cũng là nơi thu hút rất nhiều khách du lịch trong và ngoài nước. Với một số người, hình ảnh những chiếc vỏ sò (mái của nhà hát) còn là sự tượng trưng cho những chiếc thuyền buồm qua lại tấp nập nơi đây.

SO4

Nhà hát Opera Sydney kiêu hãnh bên chiếc cầu Cảng nổi tiếng.

Kế hoạch xây dựng nhà hát được khởi đầu từ những năm cuối thập kỷ 40 của thế kỷ trước khi nhu cầu về một địa điểm thật rộng để dành cho các buổi biểu diễn âm nhạc trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Và cuối cùng, đến năm 1954 thì kế hoạch được thông qua và chiến dịch tìm kiếm thiết kế được bắt đầu.

Một cuộc thi được phát động ngày 13/9/1955 với 233 thiết kế từ 32 quốc gia gửi đến cuộc thi. Tiêu chí được đưa ra rất cụ thể, đó phải có một hội trường lớn với 3.000 chỗ và một hội trường nhỏ hơn 1.200 chỗ. Mỗi không gian phải được thiết kế đáp ứng những mục đích sử dụng khác nhau như opera, hòa nhạc, hợp xướng, các cuộc hội họp lớn, các bài giảng, biểu diễn ballet và các buổi gặp mặt khác. Và cuối cùng, công trình của kiến trúc sư người Đan Mạch, Jorn Utzon, đã được chọn. Năm 1957, ông Utzon đã đến Sydney để bắt tay triển khai dự án.

SO4 %28concert hall%29

Phòng hòa nhạc có sức chứa 3.000 người.

Và công trình thế kỷ – Nhà hát Opera Sydney – đã chính thức khởi công tháng 3 năm 1959. Dự án được thiết kế theo ba giai đoạn. Giai đoạn 1 (từ 1959 đến 1963) gồm có phần bục của nhà hát. Giai đoạn 2 (từ 1963 đến 1967) dành cho việc xây dựng hệ thống mái hình vỏ sò bên ngoài. Giai đoạn 3 (từ 1967 đến 1973) bao gồm những phần xây dựng cơ bản khác và trang trí nội thất. Nhưng ở nhiều thời điểm, công trình đã không thể diễn ra đúng tiến độ, thậm chí chậm tới 47 tuần (vào đầu năm 1961) vì những khó khăn bất khả kháng liên quan đến thời tiết.

Nhà hát Opera Sydney mang thiết kế hiện đại, với hàng loạt những tấm bê tông đúc sẵn rất lớn hình vỏ sò tạo thành hệ mái rất đặc biệt của nhà hát. Opera House tọa lạc trên diện tích 1,8 ha, có chiều dài tổng 183 m, rộng 120 m. Theo kết cấu, công trình được cố định bởi chân móng gồm 580 tấn bê tông đào sâu 25 m dưới mực nước biển. Hệ thống điện cung cấp riêng cho nơi đây tương đương cho một thị trấn có 25.000 người. Hệ thống cáp truyền tải điện dài tới 645 km.

SO7

Phần mái lát gạch rất ấn tượng của nhà hát Opera Sydney.

Phần mái của nhà hát sử dụng tới 1.056 triệu viên gạch trắng bóng và những viên gạch màu kem được sản xuất tại Thụy Điển, mặc dù nhìn từ xa, những viên gạch này đều chỉ có màu trắng. Cho dù sản phẩm có khả năng tự làm sạch, nhưng vẫn có một hệ thống bảo dưỡng và thay thế thường xuyên. Nội thất của nhà hát hầu hết đều sử dụng đá granite màu hồng lấy từ vùng Tarana (bang New South Wales), ngoài ra còn có rất nhiều gỗ tự nhiên và gỗ dán.

Giai đoạn làm nội thất gặp nhiều vấn đề nhất, đặc biệt từ sau khi ông Utzon đột ngột rời bỏ công trình, tháng 2/1963, vì có một vài bất đồng với Chính phủ mới của Australia. Ông ra đi một cách cương quyết, thậm chí ngay sau đó còn đóng cửa văn phòng để đi du lịch và không liên hệ với bất kỳ ai. Trước khi làm Nhà hát Opera tại Sydney, Utzon đã thắng 7 trong số 18 các dự án mà ông tham gia đấu thầu, nhưng như đã trở thành một thói quen, chưa một lần, ông được nhìn thấy công trình của mình hoàn thiện. Và lần này cũng vậy.

Nhiều thay đổi về thiết kế đã được thực hiện, nhất là phần nội thất. Ban đầu chỉ có 2 khán phòng lớn, nhưng cuối cùng thiết kế đã bổ sung thêm 2. Các thiết kế cho sân khấu, chỗ ngồi, hành lang… cũng được yêu cầu làm lại. Rất nhiều các hạng mục mới cũng được bổ sung, và tất nhiên, chi phí bị “đội” lên tới mức không thể tin nổi, tổng cộng khoảng 102 triệu USD, trong khi tính toán ban đầu (năm 1957) chỉ là 7 triệu USD. Cũng vì sự cố Utzon mà công trình hoàn thiện chậm 10 năm – 1973 – thay vì đúng vào ngày quốc khánh 26/1/1963. Buổi lễ khánh thành được tổ chức rất “hoành tráng” với sự có mặt của Nữ hoàng Anh, Elizabeth II, hàng triệu người tham dự, được truyền hình trực tiếp, pháo hoa tưng bừng trên nền nhạc bản giao hưởng số 9 của Beethoven.

READ MORE

Tư vấn thiết kế quầy bar cho bạn Phạm Mạnh Cường

Chào Wedo, mình tên là Phạm Mạnh Cường. Mình đang có dự định mở một quán bar nên rất muốn nhờ Wedo tư vấn cho,kích thước mảnh đất là: 5x12m, mặt đường chính.

Mình dự định sẽ xây 2 tầng, tầng 2 lửng. tầng một có 1 quầy bar va một sân khấu nhỏ dùng để chơi nhạc. Mình muốn phong cách của quán nhẹ nhàng, sang trọng …

Wedo phúc đáp:

Chào bạn Phạm Mạnh Cường,

Wedo rất vui khi nhận được yêu cầu tư vấn của bạn. Theo Wedo, mảnh đất của bạn phù hợp để thiết kế một quán bar nhỏ, có thể phục vụ cùng một lúc khoảng 80 khách. Phương án bố trí có thể tham khảo là:

– Tầng 1: Sảnh vào, cổng phụ phía trong để tạo không gian đệm chuyển tiếp cho khách hàng. Tại khu vực sảnh này có thể bố trí tủ để đồ cho khách hàng.

– Sân khấu nhỏ được bố trí vị trí mà trên gác lửng cũng có thể quan sát được.

– Quầy bar được bố trí ở cuối tầng 1, khu vực kho bar, phục vụ c ó cầu thang riêng lên gác, phục vụ tầng lửng.

– Giao thông được chia riêng cho khách hàng và phục vụ, tránh được sự lẫn lộn luồng giao thông, không gây cản trở khách hàng.

– Khu WC, được bố trí ở cuối tầng 1, ngăn cách với khu khách hàng bằng một bồn cây dạng đứng, đây cũng là một trong những khu vực nên chú trọng vì đây cũng là yếu tố quan trọng để đánh giá chất lượng phục vụ của quán.

phuongan0780 1

Ngoài ra, Wedo gửi bạn một số phối cảnh phác hoạ không gian quán bar, bạn có thể tham khảo thêm.

Phương án trên, Wedo đưa ra chỉ là phác hoạ dựa trên những yêu cầu sơ phác của bạn. Để phát triển phương án và có thể tạo dựng được một thiết kế hoàn chỉnh hơn, bạn có thể liên lạc với văn phòng Wedo Hà Nội:

 

Công ty tư vấn thiết kế kiến trúc & xây dựng Wedo

Địa chỉ: số 22 Liên Trì, Phường Trần Hưng Đạo, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

Tel: 04. 3942 9652 ; 04. 22 46 79 99; Fax: 04. 3942 9653.

Website: https://wedo.com.vn Email: tuvanthietke@wedo.vn

Cám ơn bạn đã gửi yêu cầu tư vấn.

Xin chào và chúc bạn thành công!

READ MORE

Giá cả và lắp đặt bồn tắm

Chào Wedo,

Hiện nhà tôi có toillet rộng 6m2(1.6×3.6m). Tôi muốn lắp đặt một buồng tắm đứng. Xin trên thị trường hiện nay giá cả các loại bồn tắm đứng thế nào và loại nào phù hợp với nhà tôi.

Xin cảm ơn.

Wedo phúc đáp

Xin cám ơn bạn đã đến với dịch vụ tư vấn của Wedo!

Về câu hỏi của bạn chúng tôi xin trả lời như sau:

Với một phòng tắm có kích thước 6m2 là khá thoải mái nhưng có lẽ là hơi chật cho một bộ bồn tắm đứng đa năng đôi.Vậy chúng tôi khuyên bạn hãy sử dụng bồn tắm đơn.

Về sản phẩm bạn có thể tham khảo tại các siêu thị nột thất như siêu thị Casamia tại 115-Nguyễn Lương Bằng-Hà Nội, Show room Teka 132 Thái Hà – Đống Đa – Hà Nội. và Show room Teka 137-Nguyễn Văn Trỗi-Phú Nhuận –TP.HCM.

nikko s101 nikko s109
NK – S101

Kích thước: 125 x 125 x 220
Kiểu: Cabin
Giá: 2.100 USD
Đây là giấc mơ của bạn. giúp bạn có cảm giác sung mãn. NK – S101 độc đáo với chức năng tắm hơi và cả xoáy nước. Mô tả sản phẩm này chỉ bằng vài từ cũng
khó như việc thiết kế và chế tạo nó

NK – S109

Kích thước: 100 x 100 x 240
Kiểu: Cabin
Giá: 1.050 USD
Được làm từ động cơ lớn, nó có dáng vẻ của một kiểu kiến trúc tổng hợp nhưng đầy tính thẩm mỹ. Các nhà thiết kế sử dụng những đường nét khoẻ mạnh và thoải mái để tạo nên một cái nhìn mới mà hình thức và hình dáng của sản phẩm cùng với cấu trúc trụ đều thấm đượm chất hiện đại khoẻ khoắn và tính nghệ thuật

nikko s110 nikko s118
NK – S110

Kích thước: 90
x 90 x 200
Kiểu: Cabin
Giá790 USD
Bồn tắm đứng hình ovan có vòi hoa sen với những đường nét độc đáo, loai bồn tắn này phù hợp với mọi loại phòng tắm. Bên trái có vòi hoa sen nhỏ với 3 chức năng: phun nước mạnh, mát sa và tạo tia. Ngoài ra còn có hốc đựng đồ, chỗ ngồi và một tấm gương soi. Cửa trượt rãnh bằng thuỷ tinh.

NK – S118

Kích thước: 95 x 95 x 200
Kiểu: Cabin
Giá: 425 USD
Loại bồn tắm vách này được thiết kế đơn giản nhưng vẫn đảm bảo tính mỹ thuật
và tạo nên dược xự hài hoà cân đối. Loại này dược gắn thẳng vào tường, sử dụng hai bức tường giao nhau cũng như vòi tắm hoa sen sẵn có, tạo thành 1 buồng tắm độc lập ở vị trí phù hợp trong phòng tắm

nikko s119 nikko s303
NK – S119

Kích thước: 95
x 95 x 210
Kiểu: Cabin
Giá1.600 USD
Bồn tắm nhẹ nhàng là một cuộc cách mạng về kiểu mẫu, được trưng bày ở rất
nhiều viện nghệ thuật nổi tiếng trên thế giới. Buồng được trang bị một cửa trượt theo đường rãnh và nền trống trượt. Bên phải là vòi hoa sen, 1 tấm gương lớn, 1 cốc đựng đồ. Cửa và các khung làm bằng thuỷ tinh trong suốt.

NK – S303

Kích thước: 95 x 95 x 200
Kiểu: Cabin
Giá: 425 USD
Nếu bạn muốn tận hưởng cảm giác thư thái khi tắm thì bồn tắm vách chính là
giải pháp lý tưởng. Chúng tôi có rất nhiều mẫu để bạn lựa chọn. Các mẫu được thiết kế đặc biệt, mỗi kiểu là sự kết hợp hoàn hảo của các yếu tố, thuận tiện và tiết kiệm cho người sử dụng.

Các bạn có thể gửi các vấn để gặp phải vềCông ty tư vấn thiết kế nhà, kiến trúc, nội thất & kỹ thuật xây dựng Wedo. Chúng tôi sẽ giúp bạn giải quyết.

Về giá thành , một bộ bồn tắm đứng TEKA có giá từ khoảng 2000 đến hơn 4000 USD.Sản phẩm Apolo đến từ nước ý có giá mềm hơn nằm trong khoảng từ 1500 đến 3000 USD. Sản phảm Nikko có giá từ 800 đến 1700 USD. Chi tiết hãy đến các phòng trưng bầy sản phẩm của các hãng, bạn sẽ được sự hướng dẫn rất tận tình.

Nhưng sau cùng chúng tôi xin nhắc nhở bạn rằng hãy kiểm tra dung lượng cấp nước trong một ngày cho gia đình bạn sử dụng bồn tắm sẽ tốn rất nhiều nước, mà tình trạng thiếu nước sạch trong mùa mưa là không hiếm tại nhiều nơi ngay cả trong trung tâm các thành phố lớn.

Chúng tôi gửi bạn ở đây hình ảnh và giá một số loại bồn tắm của Nikko.

Chúc bạn có một sự lựa chọn đúng đắn!

READ MORE

TP.HCM: Xây dựng mức hỗ trợ bổ sung khi thu hồi đất đảm bảo không để dân thiệt

UBND TP.HCM vừa ban hành Quyết định số 11 (25/1/2006) sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Quyết định số 106/QĐ-UBND về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn TP Hồ Chí Minh. Theo đó, mức hỗ trợ phải được xây dựng đảm bảo cho các trường hợp sử dụng đất ở bị thu hồi trong cùng khu vực sau khi trừ tiền sử dụng đất phải nộp theo quy định không bị chênh lệch nhau.

Cụ thể, những nội dung của Quyết định 106 quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh được sửa đổi, bổ sung trong Quyết định 11 như sau:

– Mục 3.1 khoản 3 Điều 9

Quy định tại Quyết định 106:

3- Hỗ trợ về đất:

3.1- Trường hợp giá các loại đất do Ủy ban nhân dân thành phố ban hành để tính bồi thường (quy định tại khoản 2 Điều này) thấp hơn mức giá các loại đất đang áp dụng để tính bồi thường ở các dự án đầu tư của Nhà nước trên cùng vị trí, khu vực đất trong cùng thời điểm thì được phép tính hỗ trợ thêm. Mức hỗ trợ thêm này do Hội đồng bồi thường của dự án xác định khi xây dựng phương án bồi thường theo các trường hợp sau:

a) Tính hỗ trợ thêm trên giá các loại đất do Ủy ban nhân dân thành phố công bố (giá đất theo Quỵết định số 316/2004/QĐ-UB ngày 24 tháng 12 năm 2004 và các văn bản điều chỉnh, bổ sung có liên quan của Ủy ban nhân dân thành phố) để phù hợp với mức giá các loại đất để tính bồi thường đang áp dụng ở các dự án liền kề và đảm bảo các trường hợp sử dụng đất ở bị thu hồi sau khi trừ tiền sử dụng đất nộp theo quy định có mức giá bồi thường về đất ở không thấp hơn các trường hợp tương tự ở dự án liền kề trước đó đã nhận tiền bồi thường, hỗ trợ về đất ở.

b) Trường hợp khi tính hỗ trợ trên giá đất ở do Ủy ban nhân dân thành phố công bố để tính bồi thường theo mục a nêu trên mà gây ảnh hưởng đến dự án liền kề thì chỉ tính hỗ trợ thêm để bằng với mức giá các loại đất để tính bồi thường đang áp dụng ở các dự án liền kề và xác định mức hỗ trợ cụ thể đối với các trường hợp phải trừ tiền sử dụng đất để đảm bảo nguyên tắc quy định tại mục a nêu trên.

c) Mức giá các loại đất để tính bồi thường sau khi tính hỗ trợ thêm không được vượt quá khung giá các lọai đất để tính bồi thường do Ủy ban nhân dân thành phố ban hành (theo quy định tại khoản 2 Điều này). Trường hợp cao hơn (kể cả trường hợp phải hỗ trợ thêm theo quy định tại điểm a và b nêu trên) phải báo cáo Hội đồng Thẩm định bồi thường thành phố có ý kiến thẩm định, trình Ủy ban nhân dân thành phố quyết định trước khi Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận – huyện phê duyệt phương án bồi thường.

d) Trường hợp tại khu vực đất thu hồi không có dự án nào đang triển khai công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng thì áp dụng theo đơn giá các loại đất quy định tại Quyết định số 316/2004/QĐ-UB ngày 24 tháng 12 năm 2004 và các văn bản điều chỉnh bổ sung có liên quan của Ủy ban nhân dân thành phố. Trường hợp phải hỗ trợ thêm thì áp dụng theo mức giá đất có hỗ trợ do Ủy ban nhân dân thành phố ban hành (theo quy định tại khỏan 2 Điều này). Trường hợp có vướng mắc hoặc giá cao hơn khung giá đất có hỗ trợ do Ủy ban nhân dân thành phố ban hành thì phải báo cáo Hội đồng Thẩm định bồi thường thành phố có ý kiến thẩm định, trình Ủy ban nhân dân thành phố quyết định trước khi Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận – huyện phê duyệt phương án bồi thường.

Quyết định 11 sửa đổi, bổ sung:

3.1- Trường hợp giá các loại đất do Ủy ban nhân dân thành phố ban hành để tính bồi thường (quy định tại khoản 2 Điều này) thấp hơn mức giá các loại đất đang áp dụng để tính bồi thường ở các dự án đầu tư của Nhà nước trong cùng khu vực đất và cùng thời điểm trên địa bàn quận – huyện thì Ủy ban nhân dân thành phố ủy quyền cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận – huyện phê duyệt mức hỗ trợ bổ sung. Mức hỗ trợ bổ sung này do Hội đồng Bồi thường của dự án xác định trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận – huyện phê duyệt theo nguyên tắc khi tính hỗ trợ bổ sung vào giá các loại đất do Ủy ban nhân dân thành phố công bố (giá đất theo Quyết định số 227/2005/QĐ-UBND, ngày 27 tháng 12 năm 2005 và các văn bản điều chỉnh, bổ sung, thay thế có liên quan của Ủy ban nhân dân thành phố) phải phù hợp và không vượt quá mức giá các loại đất để tính bồi thường đang áp dụng ở các dự án đầu tư của Nhà nước trong cùng khu vực có vị trí tương ứng trên từng địa bàn quận – huyện, kể cả vị trí giáp ranh với địa bàn quận – huyện khác; đảm bảo các trường hợp sử dụng đất ở bị thu hồi sau khi trừ tiền sử dụng đất phải nộp theo quy định có tổng mức giá bồi thường, hỗ trợ về đất ở không thấp hơn các trường hợp tương tự ở dự án có vị trí tương ứng trước đó đã nhận tiền bồi thường, hỗ trợ về đất ở.

Trường hợp cần phải xác định mức hỗ trợ cao hơn giá các loại đất để tính bồi thường đang áp dụng ở các dự án đầu tư của Nhà nước trong khu vực trên từng địa bàn quận-huyện và những dự án giáp ranh với các quận – huyện khác hoặc trong khu vực chưa có dự án của Nhà nước đang triển khai thì Hội đồng Bồi thường của dự án phải báo cáo Hội đồng Thẩm định bồi thường thành phố có ý kiến thẩm định mức hỗ trợ bổ sung về đất trước khi trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận-huyện phê duyệt. Nếu còn có ý kiến khác nhau giữa Hội đồng Bồi thường của dự án và Hội đồng Thẩm định bồi thường thành phố về mức hỗ trợ bổ sung về đất thì Hội đồng Thẩm định bồi thường thành phố báo cáo, trình Ủy ban nhân dân thành phố xem xét, quyết định.

Nguyên tắc xác định giá đất để tính bồi thường và hỗ trợ thêm trên cũng được áp dụng đối với phần diện tích đất nông nghiệp có vị trí mặt tiền đường và không mặt tiền đường (ngoài phạm vi 100m so với vị trí mặt tiền đường) quy định tại khoản 2 Điều 10 của Quyết định 106.

READ MORE

Mua nhà cũng lắm điều kiêng

Dù được giới thiệu căn hộ tại tầng 13 với giá rẻ hơn các tầng khác 1 triệu đồng/m2, anh Huy vẫn quyết định không mua vì e ngại con số 13, theo quan niệm phương Tây mang lại nhiều xui rủi, sẽ “vận” vào mình.

Tại khu tái định cư Nam Trung Yên, giá những căn hộ đẹp đã leo thang từ 8 đến 9 triệu đồng/m2 cuối năm 2006 lên 12 triệu đồng/m2. Tuy nhiên, với những căn tại tầng 13, giá bán là 11 triệu đồng/m2, nếu người mua kiên nhẫn thương lượng, gia chủ có thể còn giảm nữa. Tương tự, với khu Trung Hòa – Nhân Chính, giá căn hộ tại tầng mang con số không may mắn này cũng “mềm” hơn các tầng khác 500.000-1 triệu đồng/m2.

Cũng tránh con số 13, hầu hết thang máy tại khu Trung Hòa – Nhân Chính đều không hiển thị tầng này. Thay vào đó, tầng 13 được đổi thành tầng 12A, rồi đến tầng 14. Nhiều người dân tại đây ban đầu cũng lạ lẫm khi nhà mình “mang danh” tầng 13, nhưng thang máy lại là tầng 12A. Còn với khách ra vào các tòa nhà này lần đầu thì “thật không biết đâu mà lần”, chị Lan, người từng loanh quanh một hồi không tìm được nhà người quen, cho hay.

Chị Vân, mới mua nhà tại khu đô thị Văn Quán, thì nhất định không chấp nhận căn hộ tại khu nhà gần nghĩa trang, dù rất gần đường lớn. Cuối cùng, chị quyết định chọn căn hộ tại khu nhà cách đó gần 1 km, chấp nhận đi xa hơn, nhưng không phải đi qua nghĩa trang. “Tôi nghe nhiều người nói, ở gần các nghĩa trang không lành, nên ở càng xa càng tốt”, chị phân trần.

Với nhà chung cư, người mua “thoáng” hơn, chủ yếu quan tâm hướng ban công. Hơn nữa, cả khối nhà được xây cùng hướng, cùng diện tích, hình dạng nên cũng không có nhiều lựa chọn cho người mua. Song với nhà mặt đất, duy tâm, phong thủy là cả một vấn đề. Để chọn được một căn nhà vừa ý, đa phần người mua nhờ xem tuổi, mệnh của mình hợp với hướng nào rồi mới khảo sát thị trường.

Nhiều người còn nhập tâm những quy tắc như cửa chính cần đặt ở hướng lành, hình dáng nhà nên có hình vuông, hay ít ra là hình chữ nhật. Cùng với đó là tránh tuyệt đối nhà có góc của một ngôi nhà khác hướng thẳng vào cửa chính, có đường đâm vào cửa, trước nhà là đoạn đường có hình cánh cung ngược hay nhà tóp hậu, vì quan niệm cho rằng kiểu nhà này sẽ khiến tiền tài của gia chủ trôi tuột ra ngoài. Trong trường hợp đã “trót” mua những căn nhà bất lợi về phong thủy như vậy, chủ nhà sẽ phải tìm thày phong thủy hóa giải những khiếm khuyết của ngôi nhà.

mua nha 8

Một nhân viên một trung tâm môi giới nhà đất cho hay, nhiều người đi xem nhà thường dẫn theo người xem phong thủy, nếu hướng, hình dạng đất phù hợp với tuổi, mạng… mới quyết định mua. Thậm chí, có người tìm được căn nhà ưng ý, giá cả cũng thỏa thuận xong chỉ chờ nhận nhà, nhưng đến khi nhờ người xem phong thủy, thấy hướng không hợp tuổi, bèn hủy bỏ luôn việc mua bán.

Với biệt thự xây thô, nhiều người sau khi đã biết số, lô nhà, đến thời điểm làm móng, đổ trần… đều sắm lễ mang đến xì sụp cúng khấn. Vì đã nộp một phần tiền, được coi như chủ nhà, nên họ cũng được chủ đầu tư cho phép khấn vái tại công trường, miễn không làm ảnh hưởng đến thi công.

Không chỉ quan tâm đến hướng nhà, diện tích, giá cả, nhiều người còn bỏ công tìm hiểu các “đời” gia chủ trước của ngôi nhà. Đa phần người mua muốn tìm những ngôi nhà chủ trước làm ăn phát đạt, đời sống hạnh phúc để được hưởng vận may. Những căn nhà có gia chủ trước cờ bạc, gia đình ly tán, làm ăn lụn bại nhiều khi rao bán hàng tháng trời mà không có người mua.

Tìm được căn nhà ưng ý tại phố Bùi Ngọc Dương, giá cả lại rất “mềm”, gia đình chị Mai quyết định mua luôn. Tuy nhiên, ngay trước ngày giao tiền đặt cọc, ghé vào quán nước kế bên hỏi chuyện, chị mới hay, con trai của gia chủ trước qua đời tại ngôi nhà này vì bệnh truyền nhiễm. Nghe vậy, chị Mai tức tốc bỏ ý định mua. “Dù rất muốn mua vì nhà đẹp, giá lại hợp lý, nhưng mình phải bỏ, vì ở trong ngôi nhà như vậy rất bất an”, chị Mai giải thích.

Nhiều người mua nhà cũng chú ý ngày giờ giao nhận nhà, phải nhờ người xem giờ cẩn thận rồi mới giao tiền, nhận nhà. Đến khi “nhập trạch”, ngày giờ cũng được tính toán kỹ lưỡng để đảm bảo cuộc sống tại ngôi nhà mới suôn sẻ.

Một chuyên viên tư vấn kiến trúc – phong thủy nhận xét, ngày nay hầu hết người mua nhà quan tâm đến các yếu tố tâm linh, phong thủy. Ngoài giá cả, vị trí, nhiều khi phong thủy chiếm đến 50% quyết định của người mua nhà. Khi gặp những chuyện may mắn, phát đạt, nhiều người nghĩ đến “lộc” của căn nhà. Tuy nhiên, khi có những điều không may, bất thường, yếu tố đầu tiên được nghĩ đến là ngôi nhà “có vấn đề”

Tuy nhiên, theo các chuyên gia, các quan niệm trong phong thủy đều có thể giải thích từ góc độ khoa học. Theo phong thủy, ngôi nhà có con đường đâm thẳng vào trước mặt có thể mang lại tai họa cho gia chủ. Tuy nhiên, những ngôi nhà như vậy không chỉ ô nhiễm vì xe cộ rầm rập hàng ngày, mà tai nạn giao thông cũng luôn đe dọa những người sống trong nhà.

Khái niệm “long mạch” được giải thích là nơi hội tụ năng lượng tốt của trái đất, gia chủ của ngôi có long mạch sức khỏe tốt, tinh thần thoải mái. Trong khi đó, ngôi nhà có góc của một ngôi nhà khác hướng thẳng vào khiến gia chủ ốm yếu vì chính góc đó là nơi ngưng tụ từ trường, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe.

Vì thế, theo các chuyên gia, tâm linh, phong thủy chỉ nên là yếu tố tham khảo, mang lại cảm giác vững tâm, thoải mái khi dọn vào nhà mới. “Không khu vực nào được coi là có phong thủy tốt nếu môi trường ô nhiễm, quy hoạch lộn xộn”, một chuyên viên tư vấn phong thủy khẳng định. Vì thế, theo chuyên viên này, vị trí ngôi nhà, khu vực sống thuận tiện cho sinh hoạt mới là những yếu tố quyết định cuộc sống có thoải mái, thuận lợi hay không.

READ MORE

5 Gợi ý treo tranh đẹp trong nhà

Ngày càng có nhiều người sử dụng tranh trang trí trong nhà. Nhưng treo tranh như thế nào cho đẹp lại là điều ít người biết rõ. Kiến trúc sư Trương Vũ Quang Huy tư vấn về 5 cách treo tranh cơ bản, dễ áp dụng.

Trang trí bằng tranh có ưu điểm là thường ít bị lỗi thời và dễ thay đổi khi cần thiết. Hơn nữa, bức tranh không những chỉ làm đẹp nhà mà còn nói lên được phần nào “gu” thẩm mỹ của chủ nhân.

Cách chọn tranh và treo tranh trong một không gian phụ thuộc nhiều vào phong cách nhà theo kiểu châu Âu hay châu Á, hiện đại hay cổ điển. Tranh cũng phải phù hợp với công năng sử dụng của căn phòng nơi treo tranh. Bài này không nói đến vấn đề chọn tranh mà chỉ nêu ra 5 cách treo tranh dễ ứng dụng:

tranh-treo-tuong-1

– Treo tranh tạo bố cục trọng tâm: Cách này thường hay sử dụng ở phòng khách, sảnh. Tranh được treo nơi trung tâm, theo kiểu đăng đối. Tranh thường có khổ lớn và ấn định trọng tâm cho không gian nội thất đó.

– Treo tranh theo bố cục tự do: Có thể treo đủ các loại khung khác nhau, nhiều loại hình ảnh hoặc theo dạng một bộ sưu tập. Cách treo này thích hợp với phòng trẻ em, thư viện, phòng ăn.

– Treo tranh với bố cục theo dạng xếp đặt kết hợp với đồ nội thất khác: Dạng này đang được những người trẻ tuổi ưa chuộng với phong cách nhà hiện đại. Dạng xếp đặt có thể gây ấn tượng với những bức tranh lớn để dưới sàn dọc lối đi, ở góc phòng. Tranh có thể làm phông cho bình cây khô. Tranh được xếp đặt kết hợp với đồ trang trí nội thất khác, thường tạo thành điểm nhìn thu hút trong một không gian.

– Treo theo bố cục tranh: Một bức tranh có thể được chia ra làm nhiều mảnh và khi treo lên, tranh là những mảnh ghép. Lúc này tranh đã có một bố cục khác một bức tranh thông thường. Ví dụ như bức tranh bộ ba cái, mỗi cái một màu khác nhau được treo dọc hoặc ngang sẽ tạo bố cục khác lạ.

– Cách tạo bố cục theo dạng tranh sống: Trong nhà có thể treo gương lớn để ở những góc khác nhau, có thể thấy các khung cảnh khác nhau tạo nên những khung hình đẹp. Hoặc trên tường khoét một khung và bo bằng khung tranh. Nhìn qua khung này, cảnh vật thiên nhiên sẽ tạo thành bức tranh thật sống động.

READ MORE

Tư vấn trang trí nội thất phòng Karaoke

Tôi đang dự định kinh doanh phòng Karaoke nhưng tôi đang gặp khó khăn về trang trí nội thất và màu sơn của phòng. Rất mong Wedo cho tôi lời khuyên. Nguyễn Thảo Anh

Wedo phúc đáp:

Chào bạn Thảo Anh

Rất vui vì bạn đã gửi câu hỏi đến Wedo,

Bạn đang gặp khó khăn trong việc trang trí nội thất và màu sơn của phòng, Wedo có thể gửI đến bạn một số hình ảnh nội thất phòng Karaoke để bạn tham khảo .

đỏ-ấn-tượng-1

noi-that-karaoke-3

Tuy nhiên, để cho không gian kinh doanh của bạn có thể thu hút khách và tạo lập được ấn tượng đối với khách hàng thì trước hết Wedo khuyên bạn nên xác định đối tượng khách hàng mục tiêu, có thể là giới trẻ hay gia đình…từ đó các nhà thiết kế nội  thất có thể giúp bạn tạo lập phong cách, chủ đề phù hợp. Phong cách, chủ đề này thể hiện qua trang trí nội thất và màu sơn của các phòng karaoke của bạn.

Để có được sự tư vấn chi tiết hơn, bạn có thể liên lạc với văn phòng Wedo Hà Nội và bạn sẽ được các kiến trúc sư chuyên nghiệp tư vấn.

Công ty tư vấn thiết kế kiến trúc & xây dựng Wedo

Địa chỉ: số 22 Liên Trì, Phường Trần Hưng Đạo, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

Tel: 04. 3942 9652 ; 04. 22 46 79 99; Fax: 04. 3942 9653.

Website: https://wedo.com.vn Email: tuvanthietke@wedo.vn

Cám ơn bạn đã gửi yêu cầu tư vấn.

Xin chào và chúc bạn thành công trong kinh doanh!

READ MORE

Phong thuỷ với gương soi

Gương được mệnh danh là “thuốc aspirin” trong thuật phong thủy vì chúng có tác dụng tốt trong rất nhiều trường hợp. Về nguyên tắc, gương được dùng phản chiếu những hình ảnh, đem lại cảm giác dễ chịu, chẳng hạn như một góc vườn để đưa năng lượng vào nhà.

Gương soi hữu dụng trong những không gian chật hẹp vì dường như chúng làm cho những nơi này trở nên rộng gấp đôi. Khi một phần nhà bị hụt hay nói cách khác, căn nhà có hình dáng không bình thường, gương có thể là giải pháp hiệu quả để tái tạo phần hụt làm cho căn nhà trở lại hình dáng bình thường. Để gương ở các góc tối hay khúc quẹo sẽ giúp khí luân chuyển ở khu vực dễ ùn tắc này.

mirror

Trong hành lang dài, khí di chuyển quá gấp, gương là một cách để làm khí chuyển động chậm lại. Treo một vài tấm gương theo hình chữ chi sẽ có tác dụng phản chiếu các hình ảnh nhẹ nhàng gắn ở bức tường đối diện.

Gương lồi được dùng trong thuật phong thủy để làm lệch hướng dòng khí lưu chuyển nhanh hoặc hóa giải các ảnh hưởng bất lợi từ bên ngoài chiếu vào nhà, ví dụ góc nhà cao tầng, trụ điện tín và các cây xanh sừng sững trước mặt tiền. Nó còn hóa giải những tác động ngoài ý muốn xảy ra bên trong nhà. Nhưng do gương lồi làm méo mó hình ảnh cho nên hãy treo nó ở nơi nào gương không phản chiếu người ta. Các vật có tính năng phản chiếu khác có thể dùng tương tự như gương, ví dụ như khung cửa được đánh bóng loáng, ấm nước kim loại, một cái chén thủy tinh…

Để gương phát huy được tác dụng trong không gian nội thất, nên đặt gương trong một khung, luôn giữ giương sạch sẽ, lưu ý thay các gương bị nứt, và vỡ. Tuy nhiên, nên tránh một số trường hợp như gương đặt đối diện nhau biểu thị sự bồn chồn, bất an. Không nên ghép nối các gương lại với nhau và đặt gương chiếu thẳng vào giường ngủ. Cũng nên cẩn thận với gương đối diện cửa ra vào và trực diện với cửa sổ.

READ MORE

Thắng cảnh Vịnh Hạ Long – công trình kiến trúc kỳ vĩ của thiên nhiên

Được UNESCO công nhận năm 1994, công nhận mở rộng năm 2000.

Di sản Thiên nhiên, thứ mục tiêu chí số: 1, 3.

Nằm ở phía Đông Bắc Tổ quốc, hàng nghìn đảo nhấp nhô giữa biển nước mênh mông, Vịnh Hạ Long là một thắng cảnh nổi tiếng của Việt Nam và thế giới.

Với diện tích 1553km2; 1969 hòn đảo chạy dài theo bờ biển Quảng Ninh,Vịnh Hạ Long chứa đựng nhiều giá trị ngoại hạng, quốc tế, mang tính toàn cầu trơng đó nổi bật là hai giá trị cảnh quan, địa chất địa mạo đã được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa thế giới (UNESCO) hai lần tôn vinh là Di sản thiên nhiên thế giới (Lần 1 vào năm 1994, Lần 2 vào năm 2000). Khu vực Di sản được UNESCO công nhận là nơi tập trung nhiều đảo đá, hang động, bãi tắm với diện tích 434km2 gồm 775 hòn đảo, trong đó 441 hòn có tên. Không còn nghi ngờ gì nữa, Vịnh Hạ Long thực sự là một kỳ quan thế giới, đúng như sự suy tôn trong cuốn sách ”Những kỳ quan thế giới” (Le merveiller du Mon de) của Nhà xuất bản Hacheưe năm 1950.

Như một kho báu khổng lồ, vĩ đại, Vịnh Hạ Long còn mang nhiều giá trị khác: Đa dạng sinh học, lịch sử – văn hoa, khảo cổ, kinh tế..: Vịnh Hạ Long từ lâu đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học: Hải dương học, Dân tộc học, Sinh vật học…Danh thắng Vịnh Hạ Long chứa đựng nhiều bí ẩn trong lòng, mà khi du khách đến Vịnh Hạ Long còn chưa khỏi sửng sốt trước cảnh đẹp ở đây thì đã bị những bí ẩn chưa có lời giải đáp đó lôi cuốn bởi sự hấp dẫn, bất ngờ.

Vịnh Hạ Long là một tạo hình kỳ lạ của tạo hoá, một sự kết hợp giữa điêu khắc và hội hợp, là sự hài hoà, uyển chuyển giữa bố cục và màu sắc, giữa hình khối và không gian…được biểu hiện bởi hàng ngàn đảo trên mặt biển xanh màu ngọc bích, lung linh. Vừa hoành tráng, khỏe mạnh, vừa duyên dáng, thơ mộng. Những khối đá nằm rải rác như một công viên nơi biển cả. Những hình thù khác nhau như có bàn tay sắp đặt ”cố tình” của tạo hóa khơi gợi trí tưởng tượng vô hạn của con người. Hòn Đỉnh Hương làm người ta lên tưởng đến những chiến binh dũng cảm của dân tộc ngày nào thắp nén hương mà thề nguyện giết giặc cứu nước trước giờ xung trận, Hòn Gà chọi lại có một chiều sâu triết học. Cả một tư tưởng Phương Đông thâm thuý, cổ kính, cả một học thuyết Âm dương ngũ hành từ bao đời chỉ cần nhìn vào đó thôi con người không cần lời đàm luận nào nữa. Và cả những hòn trông giống như chiếc ngai vàng của một triều đại vàng son đã qua đi, có những hòn hao hao như dáng lưng gù của Bà mẹ Việt Nam. ”Một thế giới đưa con người trở về với miền thời gian thần thẳm của quá khứ, một thế giới nâng cao dáng vóc tâm hồn cơn người lên với những miền không gian khôn cùng”.

Cái đẹp vĩnh cửu, vĩ đại của Hạ Long được tạo nên từ 3 yếu tố: Đá, Nước,Bầu trời. Đây là một ”đặc ân” của thiên nhiên dành cho Hạ Long mà chưa có nước nào trên thế giới có được. Những đảo đá nằm trên biển giống như những người lính gác trên mặt Vịnh, lại giống như đàn Thiên nga đang bơi lượn trên biển. Ai đó coi Vịnh Hạ Long như một ”hòn non bộ” của Thượng đế.

Cảnh đẹp Vịnh Hạ Long không chỉ phô bày ở núi, biển, trời mà những hòn đảo đá cũng chứa đựng trong lòng tác phẩm điêu khắc tinh xảo độc đáo. Đó là hệ thống hang động đa dạng, phong phú: Động Thiên Cung chau chuốt, lộng lẫy, hang Sửng Sốt hoành tráng, khoẻ khoắn, tựa như ”nhà hát lớn”; hang Đầu Gỗ được mệnh danh là ‘động của các kỳ quan”

Hệ thống đảo đá, hang động đưa con người tìm được niềm vui, chia sẻ được nỗi buồn, hướng tới tương lai.

Giá trị có ý nghĩa nhân văn là sự xuất hiện của con người. Con người cùng hòa nhập vào thiên nhiên. Cùng với thiên nhiên, cơn người sáng tạo ra văn hoá của mình. Những hiện vật tìm thấy trong những di chỉ khảo cổ đã nói cho các nhà khoa học rằng: Quảng Ninh nói chung, khu vực Vịnh Hạ Long nói riêng là một trong những cái nôi của người Việt cổ, Ba nền văn hoá nổi tiếng kế tiếp nhau đã được phát hiện ở khu vực này là: Văn hóa Soi Nhụ, Văn hoá Cái Bèo và Hạ Long. Nền Văn hoá Hạ Long kế tiếp nền Văn hoá Hòa Bình- Bắc Sơn và có giá trị đặc biệt trong nền văn minh Việt cổ. Các nhà khảo cổ học đã xác định được nền Văn hoá Soi Nhụ cách ngày nay 25000 năm đến 7000 năm. Các di chỉ của nền văn hoá này nằm ngay trong khu Di sản thế giới Vịnh Hạ Long. Nền văn hoá Cái Bèo cách ngày nay từ 7000 đến 5000 năm, là gạch nối giữa Văn hoá Soi Nhụ và Văn hoá Hạ Long. ”Việc xác định được nền văn hoá Soi Nhụ (có tuổi tương đương với nền văn hoá Hoà Bình và Bắc Sơn nổi tiếng thế giới) có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trước hết, nó đã đẩy được quá khứ lịch sử văn hoá của khu vực ít nhất lên tới 25.000 năm cách ngày nay. Nó đã cung cấp cho các nền Văn hóa Cái Bèo và Hạ Long ở các giai đoạn sau có một nguồn gốc chắc chắn. Nếu trước đây người ta chỉ biết tới cuộc cách mạng nông nghiệp thời đá mới Việt Nam và Đông Nam á sau Văn hóa Hoà Bình và Văn hóa Bắc Sơn thì ngày nay với việc phát hiện Văn hóa Soi Nhụ người ta còn biết thêm cuộc cách mạng khai thác biển trong các Văn hóa Cái Bèo và Hạ Long sau Văn hóa Sợi Nhụ. Nhưng điều có ý nghĩa nhất là nó giúp lý giải về một truyền thống văn hoá định hướng biển từ rất sớm và liên tục cho đến tận bây giờ trên vùng đất Hạ Long. Tổ tiên người Việt không chỉ biết đến kinh tế nông nghiệp mà còn biết đến kinh tế biển nữa”

Vịnh Hạ Long còn là nơi ghi dấu lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Nơi chứng kiến bước chân của Hai Bà Trưng truy đuổi tàn quân Tô Định qua vùng biển Vịnh Hạ Long năm 40 sau công nguyên. Từ năm1149 vua Lý Anh Tông thành lập thương cảng Vân Đồn, trải qua những sự thăng trầm và những biến cố của lịch sử từ Lý, Trần, Lê… thương cảng này trở thành trung tâm buôn bán, giao lưu văn hoá sầm uất giữa nước ta và các nước trong khu vực. Vịnh Hạ Long ghi dấu 3 trận đại thắng oanh liệt của quân và dân ta trên sông Bạch Đằng. Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán năm 938, Lê Hoàn thắng Tống năm 981, Trần Hưng Đạo thắng quân Nguyên Mông năm 1288.

Và lịch sử cũng không quên ghi dấu những chiến thắng vang dội của quân và dân ta qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ bảo vệ vững chắc biển trời Đông bắc góp phần bảo vệ độc lập cho Tổ quốc. Nét độc đáo và hấp dẫn của Hạ Long là sự xuất hiện của các cư dân làng chài trên Vịnh. Họ chính là hồi quang, là hậu duệ có tính kế thừa của một nền văn hoá đã xa xưa: Nền Văn hóa Hạ Long. Biển chi phối toàn bộ cuộc sống cư dân này. Hiện nay có 4 làng chài: Cửa Vạn, Ba Hang, Vông Viếng, Cặp La nằm rải rác trên Vịnh Hạ Long.Với khoảng 300 hộ, 3000 nhân khẩu. Những cư dân làng chài này có một truyền thống văn hóa độc đáo, đặc sắc: hò, vè, hát giao duyên, hát chèo đường mang đậm yếu tố văn hóa Biển, là ”đặc sản” văn hoá của vùng Hạ Long.

Nếu giá trị cảnh quan tự nhiên tuyệt vời đã tôn vinh khu Di sản phản ánh hình thể và màu sắc của viên ngọc quý thì giá trị địa chất được xem là cấu trúc và chất liệu tạo nên viên ngọc ấy. Lịch sử địa chất lâu dài của Vịnh Hạ Long được biết ít nhất trên 500 triệu năm với những hoàn cảnh cổ địa lý rất khác nhau, với nhiều lần tạo sơn- biển thoái, sụt chìm – biển tiến. Khu vực Vịnh Hạ Long đã từng là biển sâu vào các kỳ Odovic – Silua, là biển nông vào các kỷ Cacbon – pecmi , biển ven bờ vào cuối kỷ Plaogen – đầu Neogen và trải qua một số lần biển lấn trong kỷ Nhân sinh.Vịnh Hạ Long ngày nay mới được hình thành trong 7 – 8 nghìn năm qua. Nhưng để có Vịnh đã phải có một biển cổ tích tụ tầng đá vôi dày trên nghìn mét, trong khoảng 340 – 240 triệu năm trước, một thời kỳ xâm thực Karst kéo dài trên 20 triệu năm.

Vịnh Hạ Long còn là mẫu hình tuyệt vời để Karst trưởng thành trong điều kiện nhiệt đới ẩm. Vịnh có quá trình tiến hóa Karst trải qua hàng triệu năm, nhờ sự kết hợp đồng thời giữa các yếu tố như tầng đá vôi rất dày, khí hậu nóng ẩm, và quá trình nâng kiến tạo chậm chạp trên tổng thể. Với sự bóc mòn của nước mưa và sự xâm thực của nước biển khi lên, xuống, đã tạo ra những tháp, những thung lũng, hồ Karst phong phú nhất thế giới và một hệ thống hang động điển hình gồm 3 dạng: phát triển theo cấu trúc thẳng đứng, là các hang cổ nhất, cao nhất; phát triển có cấu trúc ngang, có độ cao trung bình, tuổi chủ yếu vào cuối Pleistocenle. Các hang động do nước cắt xẻ, bào khoét hình thành chủ yếu trong giai đoạn Honocence với những giá trị cao về hang động học, địa chất học, hải dương học…

Môi trường địa chất còn là nền tảng phát sinh các giá trị khác của Vịnh Hạ Long như đa dạng sinh học, văn hóa, khảo cổ, lịch sử.

Đa dạng sinh học là một ưu thế, một đặc điểm hấp dẫn của Vịnh Hạ Long. Đây là nơi bảo tồn các loài động thực vật vô cùng phong phú, đặc biệt nhiều loài quý hiếm.Vịnh Hạ Long tập trung nhiều hệ sinh thái vùng biển nhiệt đới như: hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái tùng áng.

Theo thống kê, san hô ở đây có 163 loài, thuộc 44 chi và 12 họ. Thực vật ngập mặn gồm 36 loài, thuộc 24 họ, động vật đáy gồm 81 loài, chim có 37 loài, có gần 1000 loài cá với 730 loài đã được đặt tên. Người ta đã ví Vịnh Hạ Long như một ”vườn bách thú”, một ”thảo cầm viên” đầy quyến rũ. .

Là một khu Di sản thiên nhiên thế giới, đồng thời là khu bảo vệ quốc gia có vị trí chiến lược về an ninh, quốc phòng, bên cạnh những giá trị to lớn trên, Vịnh Hạ Long còn là vùng biển đảo chứa đựng tiềm năng to lớn về giao thông cảng biển, du lịch, đánh bắt, nuôi trồng hải sản.

Vì vậy Vịnh Hạ Long nói riêng, tỉnh Quảng Ninh nói chung đã, đang và sẽ trở thành một trọng điểm du lịch, một khu vực phát triển nhanh chóng, sôi động về kinh tế, xã hội.

Nhận rõ tính chất nhiệm vụ, yêu cầu của việc bảo tồn, phát huy những giá trị Di sản này rất quan trọng, nhạy cảm, ngày 09-12-1994, Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh quyết định thành lập Ban Quản lý Vịnh Hạ Long. Đây là cơ quan chuyên môn, trực thuộc UBND Tỉnh, có trách nhiệm bảo tồn, phát huy những giá trị Vịnh Hạ Long, trọng tâm là khu Di sản thế giới được UNESCO công nhận. Về chuyên môn, BQL Vịnh Hạ Long chịu sự chỉ đạo của Bộ Văn hoá – Thông tin và Uỷ ban quốc gia UNESCO Việt Nam. Ban Quản lý Vịnh Hạ Long sau 8 năm thành lập, xây dựng, phát triển, với quan điểm “vừa bảo tồn, vừa phát huy giá trị Di sản Vịnh Hạ Long” đã từng bước khẳng định vai trò của mình đối với việc quản lý khi Di sản, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, phát huy giá trị Vịnh Hạ Long song song với việc bảo tồn Vịnh Hạ Long.

Với những biện pháp hoạt động quản lý khu Di sản thế giới đang dược tiến hành đồng thời với việc triển khai thực hiện một số dự án tu bổ tôn tạo hang động, thắng cảnh trên Vịnh, hiện nay Ban Quản lý Vịnh Hạ Long đã góp phần tích cực giải quyết mâu thuẫn giữa vấn đề bảo tồn Di sản với khai thác những tiềm năng lợi thế to lớn của Vịnh Hạ Long. Mới đây, Dự án Bảo tàng sinh thái Vịnh Hạ Long đã được Chính phủ phê duyệt, Ban Quản lý Vịnh Hạ Long trong thời gian tới sẽ phối hợp xây dựng một “Bảo tàng sống” quy mô đầu tiên ở Việt Nam. Bằng sự cố gắng nỗ lực của mình, Ban Quản lý Vịnh Hạ Long đang cùng với các cấp, các ngành, các nhà khoa học, các tổ chức trong nước và quốc tế nghiên cứu, đề xuất ý kiến để chuẩn bị lập hồ sơ khoa học đệ trình UNESCO đề nghị công nhận Vịnh Hạ Long có đầy đủ tiêu chuẩn (ii) tiêu chí lựa chọn Di sản thiên nhiên thế giới và theo tiêu chuẩn (v) tiêu chí lựa chọn Di sản văn hóa thế giới với giá trị da dạng sinh học và văn hoá – lịch sử, khảo cổ.

Giá trị Di sản Vịnh Hạ Long đã vượt ra khởi phạm vi đất nước, các vấn đề quản lý, bảo tồn, phát huy Di sản đã vượt ra khỏi phạm vi một tỉnh, vì vậy, con người Hạ Long nói riêng, con người Việt Nam nói chung có trách nhiệm rất cao cả, nặng nề. “Cùng với các Di sản thế giới khác trong cả nước như Di sản quần thể kiến trúc Cố đô Huế, phố cổ Hội An, thánh địa Mỹ Sơn, Di sản thế giới Vịnh Hạ Long chắc chắn mãi mãi là nơi lưu giữ và phát huy, khai thác những giá trị to lớn và vô giá về khoa học cùng những điều kỳ thú thiên nhiên cho đất nước và nhân loại”

READ MORE