Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải vừa ký Nghị định số 13/2006/NĐ-CP về xác định giá trị quyền sử dụng đất để tính vào giá trị tài sản của các tổ chức được nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất.
Đất phải xác định giá trị quyền sử dụng đất để tính vào giá trị tài sản của tổ chức do Nhà nước giao theo quy định tại Nghị định này bao gồm: Đất xây dựng trụ sở cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức kinh tế – xã hội, tổ chức sự nghiệp công (đơn vị sự nghiệp), cty nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, các tổ chức khác (gọi chung là tổ chức), được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất. Đất được Nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất đã nộp, tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã trả thuộc vốn ngân sách nhà nước. Đất do tổ chức sử dụng vào mục đích nghiên cứu, thí nghiệm, thực nghiệm về nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất (trừ trường hợp tổ chức nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất bằng vốn không thuộc ngân sách nhà nước). Đất do Hợp tác xã nông nghiệp sử dụng làm mặt bằng xây dựng trụ sở Hợp tác xã, sân phơi, nhà kho; xây dựng các cơ sở dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối. Đất rừng phòng hộ, rừng đặc dụng giao cho tổ chức. Đất được Nhà nước giao cho tổ chức sử dụng có thu tiền sử dụng đất, nhưng được miễn tiền sử dụng đất theo quy định tại Điều 12 Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 3/12/04 của CP về thu tiền sử dụng đất. Đất nhà nước giao cho các doanh nghiệp nhà nước sau khi thực hiện cổ phần hóa không thu tiền sử dụng đất hoặc có thu tiền sử dụng đất nhưng được miễn tiền sử dụng đất theo quy định tại Điều 12 Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 3/12/04 của CP về thu tiền sử dụng đất.
Căn cứ để xác định giá trị quyền sử dụng đất là diện tích đất và giá đất dựa vào diện tích đất thuộc đối tượng phải xác định giá trị quyền sử dụng đất là diện tích đất đang sử dụng, được giao theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Trường hợp diện tích đất đang sử dụng có chênh lệch so với diện tích đất ghi trong quyết định giao đất, văn bản chuyển quyền sử dụng đất thì thực hiện xác định giá trị quyền sử dụng đất theo diện tích thực tế sử dụng trên cơ sở xác nhận của Sở Tài nguyên và môi trường. Giá đất để xác định giá trị quyền sử dụng đất là giá đất do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW (gọi chung là UBND cấp tỉnh) ban hành theo quy định tại Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/04 của CP về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất (gọi tắt là Nghị định số 188/2004/NĐ-CP). Trường hợp khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà giá đất thực tế nhận chuyển nhượng, giá đất trúng đấu giá quyền sử dụng đất cao hơn giá đất do UBND cấp tỉnh quy định thì giá đất để xác định giá trị quyền sử dụng đất là giá đất nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế hoặc giá đất trúng đấu giá.
Giá đất để xác định giá trị quyền sử dụng đất: Đất xây dựng trụ sở cơ quan, xây dựng công trình sự nghiệp được xác định theo giá đất ở do UBND cấp tỉnh ban hành theo quy định tại Nghị định số 188/2004/NĐ-CP. Đất dùng làm mặt bằng sản xuất kinh doanh được xác định theo giá đất phi nông nghiệp (không phải là đất ở) do UBND cấp tỉnh ban hành theo quy định tại Nghị định số 188/2004/NĐ-CP. Đất dùng vào sản xuất, nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối được xác định theo giá đất nông nghiệp, lâm nghiệp (bao gồm cả rừng phòng hộ, rừng đặc dụng), nuôi trồng thủy sản, làm muối do UBND cấp tỉnh ban hành theo quy định tại nghị định số 188/2004/NĐ-CP.